Lời toà soạn:Tại Lễ Khai mạc Đại hội Đảng lần thứ XIII, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng đã trình bày Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về các văn kiện trình Đại hội XIII, trong đó nhấn mạnh mục tiêu: Nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng; xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện; củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa; khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, phát huy ý chí và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại; đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, công nghiệp hoá, hiện đại hoá; xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hoà bình, ổn định; phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành một nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Mục tiêu cụ thể trong những thập niên tới là: Đến năm 2025: Là nước đang phát triển có công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp. Đến năm 2030 là nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao. Đến năm 2045 trở thành nước phát triển, thu nhập cao.
VietNamNet xin giới thiệu đến quý độc giả những bài viết theo chủ đề này với mong muốn góp tiếng nói để Việt Nam sớm đạt được mục tiêu đề ra.
![]() |
Nền kinh tế Việt Nam đã có những bước tăng trưởng mạnh mẽ kể từ sau công cuộc Đổi mới. |
Tiếp tục tăng năng suất lao động trên nền tảng ứng dụng khoa học, công nghệ
Trong vòng 20 năm trở lại đây, Việt Nam luôn nằm trong top những quốc gia có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, với tốc độ từ 6-7%. Theo thống kê của Ngân hàng Thế giới (World Bank), từ năm 2002 đến 2018, GDP đầu người của Việt Nam tăng 2,7 lần, đạt trên 2.700 USD năm 2019.
Tuy vậy, có một số liệu đáng lưu ý khi nhìn vào các chỉ số phát triển để dự đoán tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế Việt Nam. Đó là năng suất lao động sơ bộ của người Việt năm 2019 vào khoảng 110,5 triệu đồng/lao động.
Báo cáo của tổ chức Năng suất châu Á (APO, 2019) cho thấy, năng suất lao động của người Việt Nam giai đoạn 2011-2018 tăng bình quân 4,8%/năm. Con số này có nhích lên trong mấy năm gần đây (2016-2018) với mức tăng 5,7%/năm.
So sánh với các nước trong khu vực, tỷ lệ tăng năng suất lao động của Việt Nam hiện cao hơn Singapore (1,42%/năm), Malaysia (2%/năm), Thái Lan (3,2%/năm), Indonesia (3,6%/năm), Philippines (4,4%/năm) và cao nhất trong khu vực ASEAN.
Khoảng cách về năng suất lao động trên mỗi lao động (màu đỏ) và trên mỗi giờ (màu xanh) của các nước so với Mỹ. Sơ đồ này cũng cho thấy mối tương quan về năng suất lao động của Việt Nam với các nước trong khu vực và trên thế giới. Số liệu: APO |
Tuy vậy, thống kê của APO cũng chỉ ra rằng, năng suất lao động tính theo PPP của người Việt vẫn rất thấp so với các nước trong khu vực. Trung bình mỗi giờ, năng suất lao động của một người Việt Nam chỉ bằng 1/11,5 so với Singapore, 1/4,5 Malaysia, 1/2,5 Thái Lan, 1/2 Indonesia, 1/1,6 Philippines và thậm chí chỉ bằng 89% của Lào.
Sự tăng trưởng thần kỳ của Việt Nam thời gian qua là nhờ chiến lược phát triển thị trường, mở cửa nền kinh tế với thương mại quốc tế, thu hút mức đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), phát triển nền tảng sản xuất và xuất khẩu.
Nhưng để tiếp tục phát triển, Việt Nam cần thoát khỏi chiến lược phát triển dựa vào lực lượng lao động giá rẻ, xuất khẩu dựa trên các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài, và chuyển trọng tâm phát triển vào tăng năng suất lao động. Trong đó, tăng trưởng năng suất do ứng dụng và phát triển khoa học công nghệ sẽ là yếu tố tiên quyết để Việt Nam phát triển nền kinh tế.
![]() |
Tốc độ tăng trưởng GDP của Việt Nam trong khoảng thời gian từ năm 1985 - 2019. Số liệu: World Bank |
Theo Dự án “Đánh giá tác động đổi mới của công nghệ ở Việt Nam tới tăng trưởng năng suất GDP của các ngành kinh tế”, kết quả phân tích năng suất lao động của toàn bộ nền kinh tế giai đoạn 2000-2018 cho thấy, tăng trưởng sản lượng bình quân trên mỗi lao động ở Việt Nam là 3,3%.
Có nhiều yếu tố tác động tới sản lượng lao động, có thể kể tới như thâm dụng vốn, sự chuyển dịch lao động giữa các ngành, khả năng hấp thụ công nghệ, nỗ lực của doanh nghiệp đầu ngành trong việc ứng dụng công nghệ,...Trong đó, yếu tố hấp thụ công nghệ đóng góp lớn nhất vào tăng trưởng, chiếm 1,8% trong tổng mức tăng 3.3% đó.
Báo cáo này cũng cho rằng, trong hơn 20 năm qua, nếu đầu tư nhiều hơn cho công nghệ, phần lớn các doanh nghiệp Việt có thể tiến gần hơn tới mức tối ưu mà các doanh nghiệp hiệu quả nhất trong nền kinh tế có thể đạt được.
Đầu tư cho khoa học công nghệ: Hưởng thành quả phồn vinh 5-10 năm sau
Theo các chuyên gia, việc nâng cao năng lực công nghệ của các doanh nghiệp là động lực chính thúc đẩy tăng trưởng sản lượng trên mỗi lao động. Việc áp dụng công nghệ là kênh quan trọng của tăng trưởng. Điều này cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của các công cụ chính sách hỗ trợ cải thiện năng lực hấp thụ công nghệ của các doanh nghiệp ở Việt Nam.
Tuy nhiên, có một thực tế là việc đầu tư cho khoa học và công nghệ ở Việt Nam vẫn còn thấp. Năm 2017, đầu tư cho nghiên cứu và phát triển (R&D) của Việt Nam chỉ chiếm 0,5% GDP, thấp hơn nhiều so với 1,44% của Malaysia hay 0,8% của Thái Lan.
![]() |
Việc áp dụng khoa học công nghệ, chuyển đổi số sẽ tác động mạnh tới năng suất lao động, từ đó tạo động lực thúc đẩy nền kinh tế Việt Nam. Ảnh: Trọng Đạt |
Mức đầu tư thấp cho R&D, từ cả khu vực nhà nước cũng như tư nhân, là vấn đề rất đáng quan tâm. Mức đầu tư thấp cùng với sự hoài nghi của các nhà đầu tư có thể xuất phát từ niềm tin rằng năng suất thu được từ việc áp dụng và sáng tạo công nghệ là không cao. Tác động trực tiếp và gián tiếp của đầu tư vào công nghệ ở Việt Nam đối với năng suất, GDP và tăng trưởng kinh tế hiện vẫn còn mang tính suy đoán.
Nghiên cứu của Bộ Khoa học & Công nghệ, Viện Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách Việt Nam (VEPR-VNU) và trường đại học Queensland (Australia) đã chỉ ra rằng, việc tăng gấp đôi đầu tư cho R&D trong 1 năm có thể dẫn đến mức tăng trưởng GDP thực trên đầu người hàng năm là 1,8% trong giai đoạn 15 năm. Các tác động cao nhất sẽ được nhận thấy vào khoảng 5 đến 10 năm sau quá trình đầu tư cho nghiên cứu và phát triển.
Nguồn vốn đầu tư cho R&D cũng sẽ tác động đến sự gia tăng tiêu dùng và tiền lương, chủ yếu do sự gia tăng thu nhập của lao động có kỹ năng và lao động phổ thông trong nền kinh tế. Đặc biệt, trong 15 năm, sự gia tăng đầu tư cho R&D dẫn đến mức tiêu dùng tăng trung bình 2,51% và đầu tư toàn nền kinh tế tăng 2,48% hàng năm.
Nhìn chung, việc áp dụng khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và nghiên cứu phát triển sẽ là chìa khóa cho sự tăng trưởng của nền kinh tế Việt Nam trong 20-25 năm tới. Trên con đường đó, các doanh nghiệp công nghệ, đặc biệt là các doanh nghiệp ICT sẽ là những “đầu kéo” quan trọng, góp phần chuyển đổi số cho cả nền kinh tế Việt Nam.
Trọng Đạt
Việt Nam sẽ tiếp tục ưu tiên thúc đẩy đổi mới sáng tạo trong phát triển công nghệ số, thực hiện chuyển đổi số trên các lĩnh vực kinh tế, xã hội, quản trị…, từng bước hình thành kinh tế số, xã hội số, chính phủ số,...
" alt=""/>Cất cánh tới phồn vinh bằng con đường khoa học công nghệÔng Paul Chen, Trưởng nhóm Kiến trúc sư Giải pháp khu vực ASEAN của Amazon Web Services (AWS), trả lời ICTnews rằng các đơn vị cung cấp giải pháp điện toán đám mây khi triển khai cho doanh nghiệp thường phải trao đổi để hiểu rõ những mục tiêu hay yêu cầu về bảo mật của doanh nghiệp. Chẳng hạn yêu cầu bảo mật của tổ chức là gì, yêu cầu về mặt tuân thủ là gì?
Nhà cung cấp dịch vụ sé đánh giá hiện trạng khách hàng từ đó đưa ra những khuyến nghị, tư vấn liên quan đến 3 lĩnh vực gồm công nghệ, quy trình và con người.
Về mặt công nghệ, doanh nghiệp cần làm rõ yêu cầu về mặt báo cáo tuân thủ của họ là gì, yêu cầu bảo mật là gì. Từ đó chuẩn bị những hệ thống backend ra sao. Hệ thống tài chính kế toán và ứng dụng trên smartphone như thế nào. Hoặc doanh nghiệp cần phải xác định rõ những dữ liệu gì của khách hàng cần bảo mật. Hay về mặt quản lý truy cập, phải trả lời xem ai có quyền truy cập vào cái gì, vào thời điểm nào…? Từ đó xác định ra mô hình điện toán đám mây phù hợp.
Doanh nghiệp phải xác định quy trình làm việc cụ thể để đưa ra những sản phẩm bảo mật tích hợp như thế nào cho phù hợp.
Về mặt con người, có những nhân viên cũ được đào tạo cẩn thận, có nhận thức tốt về bảo mật. Nhưng cũng có những nhân viên mới chưa được nhận thức thì cần tổ chức các buổi hội thảo, huấn luyện để họ hiểu rõ yêu cầu về mặt quy trình, bảo mật cho con người.
Ông Paul cho biết thông thường để doanh nghiệp chuẩn bị tốt việc ứng dụng hệ thống thì AWS sẽ giúp họ trong 3 lĩnh vực công nghệ, quy trình và con người.
Các chuyên gia bảo mật khi nói về việc bảo đảm an toàn cho hệ thống công nghệ nói chung cũng đề cập đến 3 mắt xích cốt lõi nói trên. Rằng bên cạnh trang bị các sản phẩm công nghệ đủ tốt, cần có quy trình xử lý khi xảy ra sự cố (thậm chí trước cả khi gặp sự cố) và quan trọng hơn là xây dựng ý thức cho con người trong vấn đề bảo mật.
Dành nhiều thời gian làm việc tại Việt Nam với các khách hàng như Vietjet Air, VTV Go, ngân hàng MSB, MoMo,... ông Paul cho biết các doanh nghiệp Việt đang bắt đầu ứng dụng mạnh mẽ điện toán đám mây để đổi mới sáng tạo nhanh hơn cũng như cung cấp dịch vụ một cách an toàn.
Nói về ý thức bảo mật đám mây của doanh nghiệp tại Việt Nam, theo ông Paul, hiện tồn tại hai nhóm doanh nghiệp. Nhóm doanh nghiệp, tổ chức đầu tiên có thể đang hoạt động trong một ngành có quy định rất chặt chẽ của cơ quan quản lý nhà nước, họ phải tuân thủ và do yêu cầu tuân thủ như vậy nên phải chủ động tìm kiếm những giải pháp về bảo mật hoặc chủ động tìm các giải pháp về điện toán đám mây. Nhóm khách hàng này rất chủ động, đã quen với điện toán đám mây và cũng hiểu giá trị bảo mật trên điện toán đám mây.
Tuy nhiên có một nhóm khách hàng thứ hai mới bắt đầu biết và tìm hiểu đám mây. Nhóm này từ trước đến nay chỉ sử dụng dữ liệu trên môi trường tại chỗ, không quen thuộc với môi trường điện toán đám mây. Với đối tượng khách hàng thứ hai thì đơn vị cung cấp dịch vụ cần dành rất nhiều thời gian để chia sẻ về những ưu điểm của môi trường điện toán đám mây, ưu điểm bảo mật trên môi trường điện toán đám mây và giúp doanh nghiệp hiểu khi di trú dữ liệu sang môi trường điện toán đám mây có lợi ích như thế nào để họ biết và có thể bắt đầu triển khai ứng dụng.
Việt Nam chưa có con số cụ thể về tỷ lệ doanh nghiệp ứng dựng điện toán đám mây, nhưng xét về chuyển đổi số nói chung, theo khảo sát của Hiệp hội Phần mềm và Dịch vụ Công nghệ thông tin (VINASA), các doanh nghiệp đang triển khai hoạt động chuyển đổi số hiện nay chỉ khoảng 15%. Hầu hết doanh nghiệp vừa và nhỏ chưa nghĩ đến chuyển đổi số do vướng mắc về chi phí, chưa thấy lợi ích của chuyển đổi số.
Hải Đăng
Các doanh nghiệp trong nước đã cảm nhận được tác động của số hóa và an toàn thông tin trên không gian mạng, nhiều doanh nghiệp đang trải qua giai đoạn quan trọng của chuyển đổi số và tiếp tục thực hiện sản xuất, quản lý và vận hành.
" alt=""/>3 mắt xích quan trọng để bảo mật điện toán đám mâyc![]() |
Trường xét tuyển dựa vào kết quả kỳ thi THPT quốc gia, không sử dụng bài thi tổ hợp để xét tuyển và không nhân hệ số môn thi.
Các chế độ ưu tiên, tuyển thẳng, ưu tiên xét tuyển và xét tuyển thẳng theo Quy chế Tuyển sinh đại học hệ chính quy hiện hành của Bộ GD- ĐT.
Đối với ngành Giáo dục thể chất ngoài 2 các môn văn hóa (Toán, Sinh/Toán, Hóa) lấy điểm từ kết quả thi THPT quốc gia năm 2019, môn Năng khiếu TDTT do Trường ĐH Cần Thơ tổ chức thi.
Điều kiện tuyển sinh, thí sinh đạt ngưỡng đảm bảo chất lượng đầu vào do Bộ GD-ĐT quy định (Ngưỡng đảm bảo chất lượng đầu vào các ngành Sư phạm do Bộ GD-ĐT xác định; các ngành khác do Trường ĐHCT xác định và công bố ngày 19/7/2019) và không có môn nào từ 1,0 điểm trở xuống (thang điểm 10). Đối với môn Năng khiếu TDTT, phải đạt từ 5,0 điểm trở lên.
Đối với chương trình tiên tiến và chất lượng cao, thực hiện xét tuyển từ kết quả kỳ thi THPT quốc gia năm 2019 với điều kiện thí sinh đạt ngưỡng đảm bảo chất lượng đầu vào do Trường ĐHCT xác định (công bố ngày 19/7/2019) và không có môn nào từ 1,0 điểm trở xuống (thang điểm 10), môn Tiếng Anh phải đạt mức điểm do Trường ĐH Cần Thơ quy định (sẽ công bố ngày 19/7/2019).
Ngoài ra, thực hiện xét tuyển từ thí sinh trúng tuyển hệ chính quy năm 2019 và nhập học vào Trường ĐH Cần Thơ có nguyện vọng chuyển sang học chương trình tiên tiến hoặc chương trình chất lượng cao với điều kiện thí sinh có kết quả kỳ thi THPT quốc gia năm 2019 của một trong các tổ hợp môn xét tuyển; có kết quả kiểm tra trình độ tiếng Anh đầu vào (do Trường ĐH Cần Thơ tổ chức sau khi nhập học) hoặc Chứng chỉ tiếng Anh tương đương từ Bậc 2 theo Khung năng lực ngoại ngữ 6 bậc dùng cho Việt Nam trở lên (các chứng chỉ tương đương: A2 theo Khung tham chiếu Châu Âu, IELTS 3.0, TOIEC 400, TOEFL ITP 337, TOEFL iBT 31, KET 70, PET 45, Chứng chỉ quốc gia trình độ B do Trường ĐH Cần Thơ cấp... ).
Điểm xét tuyển là tổng điểm các bài thi/môn thi theo thang điểm 10 đối với từng bài thi/môn thi của từng tổ hợp xét tuyển và được làm tròn đến hai chữ số thập phân; cộng với điểm ưu tiên đối tượng, khu vực.
Thực hiện nguyên tắc đối với ngành có chuyên ngành, sau khi trúng tuyển ngành đăng ký, thí sinh sẽ được đăng ký chọn chuyên ngành khi nhập học.
Trường căn cứ nguyện vọng của thí sinh, điểm xét tuyển và chỉ tiêu để xét chuyên ngành. Tên ngành được ghi trên Bằng tốt nghiệp, tên chuyên ngành được ghi trên Quyết định tốt nghiệp và bảng điểm Kết quả học tập toàn khóa.
Thí sinh xem chỉ tiêu từng ngành cụ thể Tại đây.
Lê Huyền
- Hội đồng tuyển sinh của Trường ĐH Kinh tế Quốc dân đã thông qua phương án tuyển sinh dự kiến năm 2019.
" alt=""/>Tuyển sinh đại học 2019 của Trường ĐH Cần Thơ