Bộ TT&TT vừa ban hành Thông tư hướng dẫn công tác thi đua,ướngdẫncôngtácthiđuakhenthưởngngàlich bong da y khen thưởng ngành TT&TT. Theo đó, Vụ Tổ chức cán bộ (Bộ TT&TT) là cơ quan thường trực Hội đồng Thi đua - Khen thưởng Bộ TT&TT, có trách nhiệm chủ trì, phối hợp với cơ quan, tổ chức, đơn vị trong ngành TT&TT tham mưu đề xuất trình Bộ trưởng ban hành Thông tư, Chỉ thị, Quyết định tổ chức, triển khai công tác thi đua, khen thưởng.
Bên cạnh đó, Vụ Tổ chức cán bộ cũng có trách nhiệm chủ trì, tham mưu, đề xuất các chương trình, kế hoạch, biện pháp tổ chức phong trào thi đua, hướng dẫn, đôn đốc, kiểm tra, sơ kết, tổng kết các phong trào thi đua, công tác khen thưởng, nhân rộng điển hình tiên tiến, gương người tốt, việc tốt trong ngành TT&TT.
Trụ sở Bộ TT&TT tại số 18 Nguyễn Du (Hà Nội).
Thủ trưởng các cơ quan, tổ chức, đơn vị trong ngành TT&TT có trách nhiệm chủ trì phối hợp với cấp ủy Đảng các cấp, Công đoàn, Đoàn Thanh niên cụ thể hóa nội dung, chỉ tiêu, các biện pháp tổ chức các phong trào thi đua và kiểm tra việc thực hiện, sơ kết, tổng kết các phong trào thi đua, nhân rộng các điển hình tiên tiến, khen thưởng và đề xuất cấp trên khen thưởng danh hiệu thi đua, hình thức khen thưởng theo quy định của pháp luật về thi đua, khen thưởng.
Thủ trưởng các cơ quan, tổ chức, đơn vị ngành TT&TT sẽ chịu trách nhiệm về quyết định khen thưởng và trình cấp trên khen thưởng, kiến nghị đổi mới công tác thi đua, khen thưởng, cho ý kiến đối với các trường hợp khen thưởng khi được thường trực Hội đồng Thi đua - Khen thưởng Bộ TT&TT yêu cầu.
Theo Thông tư quy định, danh hiệu “Cờ thi đua của Bộ TT&TT” hằng năm được xét tặng cho các tập thể dẫn đầu phong trào thi đua của cụm, khối thi đua do Bộ TT&TT tổ chức, đạt tiêu chuẩn quy định tại khoản 1 Điều 26 Luật Thi đua, khen thưởng năm 2022.
Danh hiệu “Cờ thi đua của Bộ TT&TT” được xét tặng cho tập thể dẫn đầu phong trào thi đua theo chuyên đề do Bộ TT&TT phát động có thời gian thực hiện từ 3 năm trở lên khi tổng kết phong trào thi đua. Bộ TT&TT sẽ quy định đối tượng, tiêu chuẩn xét tặng cụ thể theo từng phong trào thi đua.
Đối với danh hiệu “Tập thể lao động xuất sắc”, danh hiệu này được xét tặng hằng năm cho các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp thuộc Bộ, các phòng, ban và tương đương trực thuộc cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp thuộc Bộ đạt các tiêu chuẩn quy định tại khoản 1 Điều 27 Luật Thi đua, khen thưởng năm 2022.
Đối tượng xét tặng danh hiệu “Tập thể lao động xuất sắc” có thời gian hoạt động chính thức từ 10 tháng trở lên trong năm xét khen thưởng.
Ngoài ra, Thông tư cũng quy định đối tượng, tiêu chuẩn xét tặng danh hiệu “Lao động tiên tiến”, danh hiệu “Tập thể lao động tiên tiến”, Bằng khen của Bộ trưởng Bộ TT&TT…
Chỉ số cải cách hành chính của Bộ TT-TT được cải thiện đều qua từng nămVụ trưởng Vụ Cải cách hành chính, Bộ Nội vụ Phạm Minh Hùng cho biết, từ năm 2018 cho đến nay, Bộ Thông tin và Truyền thông có vị trí xếp hạng và điểm số cải cách hành chính luôn được cải thiện đều qua từng năm, từ vị trí 16 lên thứ 5.
Không gian vườn Nhật tại Vinhomes Smart City rộng tới 6ha với các điểm nhấn đậm chất Nhật Bản: hồ cá Koi, con đường đèn lồng, thác đá cao gần 20m nhập nguyên khối từ Nhật Bản…
Bên cạnh vị trí giao thông hoàng kim, cảnh quan quy mô, không thể bỏ qua là hạ tầng tiện ích vượt trội, cũng là lợi thế đi đầu trên thị trường của Vinhomes. Tại đây, cư dân được hưởng trọn vẹn trải nghiệm sống tiện nghi trong một bước chân từ hệ thống Mầm non & Phổ thông liên cấp Vinschool, các điểm trường công - tư trong quần thể, Bệnh viện Đa khoa quốc tế Vinmec với sân đỗ trực thăng và phòng tổng thống đặc biệt, TTTM Vincom Mega Mall lớn bậc nhất cả nước, khu shop Downtown sầm uất hay các shop dưới chân tòa căn hộ thuận tiện.
Cộng gộp cùng những lợi thế hoàn hảo trên, chính sách hỗ trợ tài chính “3 nhất”: giá tốt nhất, hỗ trợ tài chính tốt nhất, chỉ có duy nhất tại Sapphire 1&2 đã chinh phục những khách hàng có mong muốn đón Tết tại nhà mới nhưng còn lăn tăn về vấn đề tài chính.
Cơ hội đón “tân niên” trong căn hộ cao cấp tại đô thị lõi phía tây Thủ đô - Vinhomes Smart City với ưu đãi “3 nhất”
Cụ thể, áp dụng duy nhất tại hai phân khu đã sẵn sàng đón chủ nhân về ở Sapphire 1 và Sapphire 2, khách hàng sẽ được hỗ trợ tài chính tốt nhất, cho vay đến 80% giá trị căn hộ. Đồng thời, với mức chi trả ban đầu tốt nhất chỉ từ 168 triệu (tương đương 15% giá trị căn hộ), những người trẻ thành đạt, tự lập có thể đón một khởi đầu mới tại căn hộ hiện đại. Các gia đình có thể đón cuộc sống mới trong mơ ngay trước thềm năm mới tại căn hộ đa năng 2 phòng ngủ tối ưu diện tích, tọa lạc tại trung tâm phía tây Thủ đô năng động.
Tổ hợp sân thể thao đa dạng: sân tennis, sân cầu lông, sân tập bóng rổ, bóng bàn...tại nội khu Sapphire 2 là lựa chọn lý tưởng cho những cư dân năng động
Tại đây, các cảnh quan và tiện ích nội khu bậc nhất: bể bơi ngoài trời lên tới 1.000m2, sân thể thao, sân chơi trẻ em, vườn dạo bộ, khu shop thương mại dịch vụ đã được hoàn thiện. Cộng đồng cư dân văn minh, sầm uất đang sinh sống cùng với thủ tục bàn giao nhanh chóng đã sẵn sàng chào đón cư dân về ở ngay trong tháng 11.
Đăng ký tham quan Vinhomes Smart City - “Thành phố quốc tế của những công dân toàn cầu”:
Website: https://smartcity.vinhomes.vn
Hotline: 19001018
Địa chỉ: Nằm trên Đại lộ Thăng Long, Nam Từ Liêm, Hà Nội
Minh Tuấn
" alt="‘Về tân gia, đón tân niên’ ở Vinhomes Smart City với 168 triệu đồng" />‘Về tân gia, đón tân niên’ ở Vinhomes Smart City với 168 triệu đồng
Nó cũng kết hợp một mái che được cấp điện có thể được kích hoạt tự động trong trường hợp trời mưa. Thiết kế của Buick LeSabre cũng là phong cách được sử dụng ở máy bay phản lực của Mỹ và ngành ô tô sản xuất sẽ tồn tại trong hơn một thập kỷ.
3.Ford XL500 (1953)
Với hộp số nút bấm tự động, XL-500 được cho là sẽ mang lại cảm giác lái xe vô cùng nhẹ nhàng. Vấn đề kính chắn gió dạng bình cá vàng được nêu ra trước đó sẽ được giải quyết bằng công nghệ điều hòa không khí mới nổi.
Ford XL500 (1953)
Thiết bị tiêu chuẩn cũng bao gồm điện thoại và kích gầm xe trong trường hợp lốp bị thủng.
4.Alfa Romeo BAT 5 (1953)
Mỹ không có độc quyền về xe ý tưởng. Nhà thiết kế Ý Bertone đã sản xuất một loạt các mẫu xe ý tưởng mang tính đột phá trong những năm 1950, trong đó có lẽ đây là mẫu xe nổi bật nhất. Với ý tưởng theo đuổi thiết kế cực kì khí động học, hệ số cản của nó chỉ ở mức 0,23 - và trọng lượng nhẹ để có thể di chuyển nhanh chóng và nhẹ nhàng.
Alfa Romeo BAT 5 (1953)
*khi di chuyển với tốc độ cao ô tô sẽ bị nhiều loại lực cản tác động chẳng hạn như: Lực cản lăn, lực quán tính, lực ma sát, lực cản của gió. Vậy nên các nhà sản xuất xe ô tô đã nghiên cứu vấn đề này để cải thiện tốc độ và khả năng vận hành của xe.
Alfa Romeo BAT 5 đã thành công; Mặc dù chỉ với động cơ khiêm tốn 100 mã lực phanh, chiếc xe nặng 1100kg này có thể cung cấp tốc độ tối đa là 120 km/h. Hiệu suất kéo BAT 7 vào năm tiếp theo chỉ có 0,19.
5.Buick Wildcat II (1954)
Với phần đầu xe 'hình cánh chim bay' và kết cấu bằng sợi thủy tinh, Wildcat II chắc chắn là chiếc xe của tương lai khi nó xuất hiện vào năm 1953 - cùng năm với chiếc Corvette nguyên bản.
Buick Wildcat II (1954)
6.De Soto Adventurer II Coupé (1954)
Adventurer II đến từ thiết kế Supersonic của Ghia của Giovanni Savonuzzi. Nó đã được Virgil Exner làm lại để phù hợp với chiều dài của khung xe Desoto và khi làm như vậy, ông đã tạo ra một thiết kế ấn tượng hơn nhiều. Tổng quan về chiếc xe này thì đây là một ý tưởng được nghĩ ra về một chiếc xe “láu cá” hơn là phô trương.
De Soto Adventurer II Coupé (1954)
Điểm độc đáo của chiếc Ghia đặc biệt này là cửa sổ trời trượt ẩn vào khu vực cốp xe.
7.Ford FX Atmos (1954)
FX là viết tắt của Future Experimental. Nó được thiết kế theo kiểu máy bay phản lực, với đèn pha/thanh cản bùn phía trước gắn ăng-ten vô tuyến và mang một nét tương đồng mạnh mẽ với cửa hút khí của máy bay phản lực.
Ford FX Atmos (1954)
Nó cũng có đèn hậu kiểu ống xả tên lửa và vây đuôi nổi bật mà Ford cho biết ý tưởng này "đến từ tư duy sáng tạo tự do và không giới hạn", đây thực sự là một thiết kế thời đại máy bay phản lực - hay thậm chí là thời đại vũ trụ.
8.GM Firebird I (1954)
Là mẫu xe đầu tiên trong số 3 mẫu xe ý tưởng Firebird của General Motors, Firebird có hệ thống điều khiển một thanh đi kèm với vô lăng, chân ga và phanh. Về cơ bản, đây là một chiếc máy bay phản lực có bánh và cũng là chiếc ô tô chạy bằng tuabin khí đầu tiên được thử nghiệm ở Hoa Kỳ.
GM Firebird I (1954)
Thiết kế của chiếc xe này đặc biệt ở chỗ có mái che hình bong bóng trên buồng lái một chỗ ngồi, thân máy bay hình viên đạn được làm hoàn toàn bằng sợi thủy tinh, cánh ngắn và vây đuôi thẳng đứng.
9.Ford Mystere (1955)
Bạn sẽ không muốn phải lắp một chiếc kính chắn gió mới vì vẻ đẹp của chiếc xe này đến từ trang bị kính chắn gió có sẵn của nhà sản xuất.
Ford Mystere (1955)
Cửa kính kiểu tròn dùng để làm vòm mái che, cửa sổ và kính chắn gió. Bản lề ở phía sau của mái che có thể mở lên 70 độ, ghế trước sẽ xoay ra ngoài và hành khách có thể dễ dàng ra vào bằng cửa nửa cánh.
10. Lincoln Futura (1955)
Được biết đến nhiều nhất nhờ vai diễn chính trong loạt phim truyền hình Người Dơi gốc, Futura xứng đáng có một vị trí trong danh sách này vì sự độc đáo ở mái vòm Plexiglass đôi cùng với các vây phía trước và phía sau.
Lincoln Futura (1955)
Ford đã chi 250.000 đô la tương đương 2,5 triệu đô la Mỹ ngày nay (khoảng 56.6 tỷ đồng) để xây dựng chiếc xe ý tưởng chạy động cơ V8 300 mã lực phanh này.
11.Buick Centurion (1956)
Phần đuôi của chiếc xe này được lấy cảm hứng từ một chiếc máy bay chiến đấu phản lực. Điều này đáng được đề cập đặc biệt ở đây vì thay vì gương chiếu hậu, đã có một camera ở đuôi chiếu hình ảnh lên màn hình TV trên bảng điều khiển - một công nghệ mà bây giờ mới được đưa vào sản xuất ô tô.
Buick Centurion (1956)
Toàn bộ phần đầu của chiếc xe được làm bằng kính, chỉ với một vài thanh trụ mỏng để tăng độ cứng.
12.GM Firebird II (1956) & III (1958)
GM đã tham gia thị trường để giám sát Firebird 1 (ở phía bên trái bức ảnh). Được chế tạo từ titan, Firebird II (ở giữa) được thiết kế để chạy trên đường có dẫn hướng, vì vậy nó là tiền thân của xe tự lái ngày nay.
GM Firebird II (1956) & III (1958)
Hai năm sau, GM tiếp bước nó với Firebird III (phải). Lần này Harley Earl (trong ảnh) tìm cách chuyển cảm hứng từ máy bay phản lực sang tên lửa vũ trụ. Phiên bản 3 của Firebird được trang bị tính năng dẫn đường tự động, tuabin 225 mã lực phanh, đèn điều khiển khí hậu và đèn chiếu sáng tự động.
13.Oldsmobile Golden Rocket (1956)
Golden Rocket mạnh mẽ với công suất 275 mã lực phanh từ động cơ V8 3,2 lít của nó và khả năng điều chỉnh cột lái được trợ lực.
Oldsmobile Golden Rocket (1956)
Khi cửa mở, những chiếc ghế được nâng lên và xoay ra bên ngoài. Những tính năng này đã được đưa vào sản xuất ô tô ngay sau đó. Một đặc điểm không có là các tấm mái có bản lề hướng lên trên để việc ra vào dễ dàng hơn.
14.Ford X-1000 (1957)
X-1000 được thiết kế bởi Alex Tremulis với động cơ có thể được gắn ở mũi hoặc đuôi. Cabin sang trọng được trang bị TV và hệ thống hi-fi trong khi có mái che có thể thu vào cho hai ghế, cho phép chiếc xe được lái như một chiếc xe mui trần hoặc một chiếc xe coupe đầu tròn.
Ford X-1000 (1957)
15.XP-700 Corvette (1958)
Thực ra là một chiếc Corvette đã được cải tạo lại, XP-700 có thiết kế phần mũi đặc biệt và phần tán trên đỉnh bằng thiên tròn mang lại cảm giác thời đại không gian về nó.
XP-700 Corvette (1958)
Hoàn toàn là một nghiên cứu thiết kế, XP-700 cũng loại bỏ gương chiếu hậu thông thường và thay vào đó là kính tiềm vọng để tầm nhìn phía sau không bị cản trở.
Lam Ngọc(theo Autocar)
Khám phá Porsche 911 Turbo 1994 trong phim “Bad Boys” giá 1.43 triệu USD
Porsche 911 Turbo 1994 trong phim “Bad Boys” được đem ra đấu giá tại triển lãm Kissimmee Mecum năm 2022 với giá 1.43 triệu USD. Phiên đấu giá làm cho nó trở thành một trong những chiếc 911 Turbo thế hệ 964 đắt giá nhất.
" alt="Những mẫu xe ý tưởng có tầm ảnh hưởng nhất được chế tạo từ trước đến nay (P1)" />
...[详细]
Ông Võ Đăng Thiên, Phó Tổng biên tập Báo VietNamNet
Trong những năm qua có một thực tế rằng mỗi liên hệ giữa hoạt động nghiên cứu và thị trường, giữa nhà khoa học với doanh nghiệp chưa thực sự mạnh mẽ. Thực tế này khiến cả nhà khoa học, doanh nghiệp và nhà nước và người dân đều thiệt thòi, tiềm năng sẵn có không được phát huy. Nhiều sáng chế, giải pháp được nghiên cứu, nhưng gặp khó khăn về thương mại hóa.
Trước vấn đề này, Chính phủ đã nổ lực thúc đẩy kết nối giữa ba nhà gồm viện, trường - doanh nghiệp - nhà nước. Từ đó cải thiện chất lượng thị trường giao dịch, mối quan hệ cung cầu công nghệ, chuyển giao sản phẩm công nghệ mới được phát triển. Để hỗ trợ các doanh nghiệp đổi mới công nghệ, Bộ KH&CN đã có nhiều chương trình, dự án hỗ trợ nghiên cứu KHCN. Bộ cũng thúc đẩy chuỗi phát triển thị trường KHCN phải bao gồm nghiên cứu - trung gian và chuyển giao. Trong đó, chương trình 2075 được coi là yếu tố trung gian hỗ trợ thương mại hóa các nghiên cứu trong nhà trường và của nhà khoa học.
Thời gian qua, dù thị trường KHCN đã được định hình và phát triển, nhưng nguồn cung về các giải pháp, thiết bị dịch vụ công nghệ còn hạn chế. Tốc độ tăng trưởng bình quân giá trị giao dịch công nghệ chung toàn nền kinh tế là 20,9%. Trong đó, mức độ đóng góp những nghiên cứu từ viện, trường vào công nghệ chủ lực còn thấp. Nguồn cung thị trường KHCN chưa cao do những công trình nghiên cứu tại các trường được trải qua nhiều bước sàng lọc trước khi xem xét tới khả năng thương mại. Bởi có một số nghiên cứu dù có kết quả nghiệm thu tốt nhưng chưa sẵn sàng chuyển giao và có đủ điều kiện, yếu tố thị trường để doanh nghiệp, thị trường đón nhận.
Theo kết quả khảo sát đổi mới sáng tạo trong doanh nghiệp thuộc dự án FIRST-NASATI thực hiện mới đây, có tới gần 85% doanh nghiệp tự tiến hành hoạt động nghiên cứu phát triển để có được các sản phẩm mới, chỉ có gần 14% doanh nghiệp đã phối hợp với đơn vị bên ngoài triển khai nghiên cứu đổi mới sản phẩm.
"Trên tinh thần đó, báo VietNamNet tổ chức tọa đàm “Phát triển thị trường Khoa học công nghệ” với sự tham gia của đại diện các cơ quan quản lý, viện nghiên cứu và doanh nghiệp để giải đáp thông tin chính sách của Nhà nước về thị trường KHCN; những thành tựu, kinh nghiệm mà doanh nghiệp và cơ quan nghiên cứu đã đạt được trong quá trình phát triển thị trường KHCN. Đây cũng là một trong những động lực và là đích đến của KHCN nước nhà, thương mại hóa và đưa các sản phẩm ra đời sống, phục vụ phát triển đất nước, phục vụ đời sống nhân dân, cũng là tự phát triển bản thân và khẳng định mình”, Phó Tổng Biên tập Võ Đăng Thiên cho biết.
Thưa ông, Bộ KHCN đã đưa ra chương trình 2075 được coi là yếu tố trung gian hỗ trợ thương mại hóa các nghiên cứu trong nhà trường và của nhà khoa học. Vậy chương trình này hoạt động đã đem lại kết quả ra sao thưa ông?
Ông Trần An, Cục Phát triển thị trường doanh nghiệp KHCN: Chương trình phát triển thị trường KH và CN đến năm 2020 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 2075/QĐ-TTg ngày 8-11-2013 và bắt đầu triển khai từ năm 2015, Chương trình đã đạt được một số kết quả như sau:
Tổ chức trung gian có vai trò quan trọng đối với sự phát triển của thị trường khoa học và công nghệ vì vậy thông qua Dự án “Xây dựng hệ thống liên kết các sàn giao dịch công nghệ và thiết bị trực tuyến vùng duyên hải Bắc Bộ nhằm thúc đẩy thị trường công nghệ tại Việt Nam” đã góp phần kết nối 05 sàn giao dịch công nghệ của 05 tỉnh/thành Hải Phòng, Quảng Ninh, Nam Định, Thái Bình, Ninh Bình ứng dụng CNTT trong việc kết nối mua bán công nghệ, đẩy mạnh quá trình thương mại hóa kết quả nghiên cứu, tài sản trí tuệ.
Ông Trần An, Cục Phát triển thị trường doanh nghiệp KHCN (Bộ KHCN)
Đối với tài sản trí tuệ giai đoạn 2016-2020, đã có hơn 25 sản phẩm được đăng ký quyền sở hữu trí tuệ, đặc biệt từ dự án thương mại hóa kết quả nghiên cứu, tài sản trí tuệ của Chương trình, đã góp phần nhằm làm tăng số lượng sản phẩm công nghệ được đăng ký quyền sở hữu trí tuệ và tạo động lực gia tăng giá trị giao dịch mua bán tài sản trí tuệ bao gồm (giải pháp, quy trình, bí quyết công nghệ).
Hàng năm, Bộ Khoa học và Công nghệ tổ chức các sự kiện về xúc tiến chuyển giao công nghệ, thương mại hóa kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ, tài sản trí tuệ; phát triển thị trường và doanh nghiệp khoa học và công nghệ; Chợ chợ công nghệ và thiết bị; Trình trình diễn kết nối cung - cầu công nghệ; ngày hội khởi nghiệp công nghệ và các sự kiện về đổi mới sáng tạo; triển lãm sáng chế, triển lãm sản phẩm khoa học và công nghệ tiềm năng thương mại hóa ở trong nước và nước ngoài. Các sự kiện này tổ chức hàng năm quy mô vùng, quốc gia và quốc tế đã thúc đẩy hoạt động giao dịch công nghệ và thiết bị, tạo được hiệu ứng tích cực đối với thị trường KH&CN.
Có một thực trạng là việc liên kết giữa nghiên cứu và thị trường, giữa nhà khoa học và doanh nghiệp vẫn còn hạn chế. Vậy chúng ta đã có những giải pháp gì để giải quyết bài toán này?
Ông Trần An: Việc thúc đẩy liên kết và chuyển giao công nghệ giữa viện, trường với doanh nghiệp vẫn là một bài toán khó. Chỉ 5,7% doanh nghiệp được hỏi cho biết tìm đến viện, trường khi có nhu cầu ứng dụng đổi mới công nghệ và nâng cao chất lượng sản phẩm. Vì vậy cần tập trung hoàn thiện thể chế chính sách để phát triển thị trường khoa học và công nghệ trong bối cảnh mới; phát triển các tổ chức trung gian của thị trường khoa học và công nghệ. Bên cạnh đó, chú trọng phát triển hạ tầng quốc gia của thị trường khoa học và công nghệ; thúc đẩy phát triển nhu cầu về hàng hóa khoa học và công nghệ, nâng cao năng lực hấp thụ, tiếp thu, làm chủ và áp dụng công nghệ tại các doanh nghiệp; thúc đẩy phát triển nguồn cung hàng hóa khoa học và công nghệ trên thị trường khoa học và công nghệ; tăng cường các hoạt động xúc tiến thị trường khoa học và công nghệ; đẩy mạnh việc xã hội hóa các sự kiện thúc đẩy kết nối cung - cầu công nghệ với sự tham gia của khu vực tư nhân…
Tôi muốn đặt câu hỏi cho ông Tạ Hải Tùng, Viện trưởng Viện Công nghệ thông tin và truyền thông (Đại học Bách Khoa HN). Theo đánh giá của ông thì các mô hình mà nhà nước hỗ trợ cho việc nghiên cứu KHCN và thương mại nó ra sao?
PGS.TS Tạ Hải Tùng: Để hoạt động thương mại hóa kết quả nghiên cứu trở nên hiệu quả thì có mấy vấn đề. Một là: ta phải có kết quả nghiên cứu tốt, có thể giải quyết được bài toán thị trường. Hai là đôi khi chúng ta nghĩ mọi nghiên cứu phải đi đến thị trường ngay song thực ra nghiên cứu có nhiều sứ mệnh. Nếu nghiên cứu cơ bản, nó để phát triển tri thức, các nhà khoa học luôn phải làm để đóng góp cho kho tàng tri thức nhân loại, ngoài ra các nhà khoa học còn có thêm nhiệm vụ đào tạo. Nghiên cứu cơ bản đóng góp rất tốt cho tri thức và đào tạo, nếu đi tới thị trường cần quá trình dài.
Về nghiên cứu ứng dụng, phải định hướng thị trường. Chúng ta mong muốn từ một đề tài ra thẳng thị trường, các nước cũng không làm được điều đó.
Do đó, đầu tiên, chúng ta phải xác định rõ vai trò và sứ mệnh của nghiên cứu khoa học. Thứ hai, chất lượng chúng ta không thể nào chuyển giao và doanh nghiệp không tìm đến nếu chất lượng không đáp ứng được.
Khi có quản lý tốt rồi mới nghĩ tới sự hỗ trợ của bước đi ra thị trường. Nhà nước nên đầu tư mạnh hơn nữa cho nghiên cứu vì bao giờ cũng thế, lượng đổi chất sẽ đổi đặc biệt trong bối cảnh chất lượng còn tương đối thấp. Tuy nhiên, hiện tại, làn sóng các bạn trẻ trở về nước, cung cấp đủ kinh phí họ làm nghiên cứu để từ đó ra sản phẩm… Cần trợ lực hơn nữa để có thể bùng nổ.
Ông Tạ Hải Tùng, Viện trưởng Viện Công nghệ thông tin và truyền thông (Đại học Bách Khoa HN)
Chương trình sẽ tốt hơn nếu doanh nghiệp đặt hàng cho các nhà khoa học. Vấn đề đến từ hai phía nhưng chúng ta có vẻ đang tập trung vào phía đưa nghiên cứu từ ngăn tủ ra thị trường. Vấn đề ngược lại là từ doanh nghiệp đến nhà khoa học, tôi kỳ hơn vào chiều này.
Các chương trình hỗ trợ chỉ có thể đến điểm bùng nổ nếu kết quả đủ tốt. Hai bên không có gì để gặp nhau, nếu ép gặp cũng khó. Nếu sản phẩm đủ tốt, thị trường có nhiều quỹ, doanh nghiệp, tập đoàn, cá nhân sẵn sàng bỏ tiền vào làm.
Thưa ông, tại Viện Công nghệ thông tin và truyền thông của ông có gặp phải khó khăn nào khi nghiên cứu và thương mại hóa các sản phâm công nghệ?
PGS.TS Tạ Hải Tùng: Chúng tôi có nhiều sản phẩm đưa ra thị trường nhưng quy mô còn hạn chế. 3 năm gần đây, tình hình khởi sắc hơn nhiều vì đầu tư của nhà nước gửi anh em đi học nước ngoài, nhiều người trở về.
Trình độ phát triển cũng có sự thay đổi về bản chất, chúng ta dần nhận ra câu chuyện nền công nghiệp chỉ dựa vào gia công không còn nhiều dư địa phát triển, do đó phải đầu tư nghiên cứu khoa học. Khi đầu tư chắc chắn sẽ có thành quả. Khi có kết quả tốt, lại có câu chuyện các bạn tự tìm tòi đưa sản phẩm đến thị trường.
Chúng tôi chưa có dự án nào dựa vào hệ thống hỗ trợ của nhà nước mà đa phần các bạn tự triển khai. Ví dụ, các bạn đi thi các giải thưởng như Nhân tài Đất Việt, sau đó các bạn đi gặp quỹ đầu tư hoặc quỹ hỗ trợ khởi nghiệp đổi mới sáng tạo, lập nhóm để startup hoặc spinoff. Tôi thấy có 4, 5 nhóm như vậy và họ có sản phẩm độc đáo.
Cái hay là để một doanh nghiệp đầu tư cho R&D để nuôi được 5 tiến sĩ từ nước ngoài về như vậy, mỗi tháng phải bỏ ra tối thiểu 1 tỷ, 1 năm chưa ra được gì mất khoảng 12 tỷ. Song, chỉ mất khoảng 2 tỷ nếu hợp tác với các trường. Đó là vì anh đến, nhìn kết quả của họ có phù hợp với bài toàn hay không, anh đặt hàng chỉnh sửa cho phù hợp. Tôi cho rằng việc doanh nghiệp tìm đến trường đã xảy ra chính vì nhu cầu tự thân của doanh nghiệp, chi phí đỡ tốn kém hơn.
Cuối cùng vẫn là câu chuyện chất lượng nghiên cứu, đầu bài, mọi thứ phát triển hơn sẽ bảo đảm.
Tôi được biết Viện CNTT - TT có được nhận nguồn vốn đầu tư cho nghiên cứu khoa học các quỹ trong đó có Vingroup. Ông có so sánh gì từ việc hỗ trợ của các tổ chức này và nguồn vốn của nhà nước?
PGS.TS Tạ Hải Tùng: Tôi về nước năm 2011 có gần 10 năm làm KHCN trong nước, đã nhìn thấy sự thay đổi ấn tượng trong 10 năm nay. Trước đây 10 năm, ở trong trường, hồi đó đi dạy mới có thu nhập. Để apply một đề tài nhà nước chắc 2-3 năm mới được 1 đề tài, khi được phê duyệt cũng hết vấn đề nóng. Các bạn trẻ khả năng tiếp cận đề tài nhà nước gần như không có.
Gần đây, chúng tôi thấy sự tiếp cận mạnh và nhanh chóng của các quỹ, tập đoàn nước ngoài như Samsung, IBM, Naver… họ có cách tiếp cận rất hiện đại. Để xin một đề tài của nhà nước, từ lúc đề xuất đến lúc ký hợp đồng mất khoảng 1 tới 1,5 năm. Nếu apply đề tài từ quỹ của Vingroup chỉ mất 3,4 tháng để ký hợp đồng tài trợ… Cách tiếp cận từ lúc nộp hồ sơ, xét duyệt, ký hợp đồng, hỗ trợ… rất hiệu quả.
Nhà khoa học chỉ chuyên tâm nghiên cứu thay vì phải làm nhiều câu chuyện liên quan tới quản lý, dự án, đề tài, giải ngân và thủ tục hành chính khác. Đang có xu hướng trong đơn vị là bỏ qua nguồn kinh phí của nhà nước vì quá phức tạp và bất cập, chỉ tập trung vào quỹ nước ngoài và tập đoàn trong nước. Tôi nghĩ rằng đây là xu hướng hay và cơ quan quản lý sẽ phải nhìn lại cách đánh giá, vận hành chương trình của mình nếu không các nhóm nghiên cứu trẻ, năng động sẽ dồn hết sang quỹ nước ngoài.
Theo ông, Nhà nước nên làm gì trong việc hỗ trợ đề tài khoa học trước bối cảnh như vậy?
PGS.TS Tạ Hải Tùng: Câu chuyện tự chủ đại học, nhiều người cho rằng cái gì cũng nên xã hội hóa, dựa vào nguồn nước ngoài, doanh nghiệp tư nhân. Song, khi tìm hiểu, kể cả ở Mỹ, nguồn đầu tư cho nghiên cứu khoa học nhiều nhất vẫn là từ nhà nước. Riêng đối với trường đại học, thống kê của họ cho thấy nhà tài trợ lớn nhất là nhà nước. Vì có những nghiên cứu không ra sản phẩm trực tiếp, các quỹ tập đoàn sẽ không tài trợ, họ chỉ tài trợ cho dự án nào gắn bó chặt chẽ với hoạt động sản xuất, kinh doanh của họ. Còn nhà nước vẫn phải làm vai trò nghiên cứu khoa học cơ bản, mang tính chất định hướng, dự báo, kể cả không "hot". Do vậy, nhà nước không thể nào bỏ qua việc tài trợ.
Nhưng chúng ta phải thay đổi hệ thống đánh giá, xét duyệt, vận hành quy trình để các quỹ mang tính chất dài hơi hơn, hiệu quả hơn. Ví dụ, để một nhà khoa học đề xuất đề tài, họ phải đề xuất chủ đề nghiên cứu, lại có hội đồng xét duyệt chủ đề ấy rồi mang đi đấu thầu. Như vậy là không đúng vì chưa chắc người đề xuất đề tài ấy được thực hiện dự án đó. Nhà nước đã lấy cái đó làm đầu bài của nhà nước.
Tại sao không kết hợp hai cái làm một là đề xuất luôn chủ đề nghiên cứu và đề xuất luôn tôi sẽ làm dự án đó. Quy trình ấy nhiều năm nay vẫn tồn tại. Chính vì năng lực ra đầu bài không tốt nên huy động các nhà khoa học ra đầu bài. Đáng lẽ người ra đầu bài thực hiện luôn lại dùng nó để đi đấu thầu, tôi thấy chưa hợp lý. Tôi đề nghị nên thay đổi.
Ngoài ra, nhà nước cố gắng bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, khi nhà khoa học chuyển giao lo ngại nhất là mất quyền sở hữu trí tuệ. Họ sẽ phải đi đăng ký bằng sáng chế nhưng hiện tại do số lượng chuyên gia xét duỵet chưa được nhiều, thời gian lâu. Thời gian sau xảy ra tranh chấp, nên có hệ thống hỗ trợ họ.
Thêm nữa, làm thế nào để câu chuyện sử dụng hàng Make in Vietnam thực chất hơn thì doanh nghiệp tìm đến nhà khoa học nhiều hơn.
Tôi muốn đặt câu hỏi cho ông Nguyễn Tuấn Anh, Chủ tịch Công ty Lumi Việt Nam - một công ty chuyên về thiết bị chiếu sáng thông minh. Khi phát triển các sản phẩm công nghệ của mình Lumi có tiếp cận được có được tiếp cận các nguồn lực từ phía nhà nước như vốn đầu tư, cơ chế hỗ trợ khoa học công nghệ… hay không?
Ông Nguyễn Tuấn Anh: Lumi ra đời từ năm 2012 tự lực là chủ yếu, Bộ KH&CN cũng có một số hỗ trợ như về sản phẩm đưa ra thị trường, hỗ trợ quảng bá ở các hội chợ triển lãm trong và ngoài nước. Lumi đánh giá sự hỗ trợ này khá là thiết thực.
Ngoài ra việc đăng ký sở hữu trí tuệ, kiểu dáng công nghệ, Lumi cũng có sự hỗ trợ từ Viện Sáng chế. Chúng tôi cũng được hỗ trợ bảo hộ sở hữu trí tuệ để đảm bảo không có xung đột với nước ngoài.
Năm nay, Lumi còn được chứng nhận doanh nghiệp KH&CN, đây là vinh dự rất lớn để Lumi có nguồn lực tốt hơn đầu tư mạnh cho nghiên cứu & phát triển (R&D).
Ông Nguyễn Tuấn Anh, Chủ tịch Công ty Lumi Việt Nam
Vậy ông đánh giá sản phẩm ra thị trường hiện gặp vấn đề gì?
Ông Nguyễn Tuấn Anh: Chúng tôi gặp nhiều khó khăn ở chỗ ý tưởng này có chưa, có xung đột về mặt sở hữu trí tuệ hay không. Chúng tôi đánh giá phải có thông tin về việc này nếu không sẽ rất rủi ro cho doanh nghiệp.
Bởi khi dành nhiều công sức cho sản phẩm, các nguồn lực khác sẽ bị hạn chế. Bộ KH&CN có thể hỗ trợ được nhưng một sản phẩm công nghệ phải đủ nhanh để ra thị trường (thông thường 6 tháng đến 1 năm), mất 2-3 năm xin tài trợ là quá muộn. Ngoài ra, Bộ có thể hỗ trợ doanh nghiệp mang sản phẩm công nghệ ra nước ngoài, được lắng nghe, phản hồi cải tiến đáp ứng nhu cầu thị trường. Đây là những khó khăn mà chúng tôi đánh giá Nhà nước có một phần hỗ trợ được.
Cụ thể Nhà nước phải hỗ trợ như thế nào, thưa ông?
Ông Nguyễn Tuấn Anh: Về phần công nghệ lõi sâu, các nhà trường và Viện nghiên cứu nắm khá sâu, Lumi hay các doanh nghiệp dành thời gian nghiên cứu là rất khó khăn do bị hạn chế về nguồn lực và thời gian. Việc giúp Lumi kết nối các Viện, đứng vai trò doanh nghiệp như Lumi cần gì, hỗ trợ nguồn lực nghiên cứu sâu. Đây là những việc mà viện nhà trường nghiên cứu có thể làm được để kết nối.
Để một sản phẩm thương mại hóa ra thị trường, về mặt phần cứng, ví dụ như khuôn, chi phí là rất cao. Vì thế rất mong Bộ KH&CN có phương pháp giúp doanh nghiệp đưa sản phẩm ra thị trường nhanh nhất.
Ngoài ra, hỗ trợ doanh nghiệp chứng thực đây là sản phẩm công nghệ Make in Vietnam, từ đó tạo được niềm tin cho người tiêu dùng.
Ngoài ra Bộ KH&CN tổ chức các sự kiện truyền thông online/offline giúp doanh nghiệp mở rộng thị trường, kết nối các đối tác và doanh nghiệp nước ngoài.
Hỗ trợ đánh giá về tiêu chuẩn, chất lượng sản phẩm, bởi các thị trường nước ngoài như Mỹ, Nhật Hàn không quá quan tâm về thuế mà phải đáp ứng tiêu chuẩn chất lượng, những việc này doanh nghiệp như Lumi không nắm đầy đủ. Đây là việc mà các Viện nghiên cứu tư vấn đầu mối có thể hỗ trợ được doanh nghiệp khi đưa sản phẩm ra thị trường nước ngoài.
Mục đích cuối cùng là hỗ trợ để tạo ra thành quả tốt nhất, sản phẩm bán được ra thị trường thì tất mọi người hỗ trợ trong các khâu đều được hưởng lợi.
Tôi quay trở lại câu hỏi với đại diện Cục Phát triển thị trường doanh nghiệp KHCN, với các đề xuất của các doanh nghiệp và viện nghiên cứu như trên thì Bộ KHCN hiện nay có thể hỗ trợ được thế nào để có thể thúc đẩy việc thúc đẩy thương mại hóa sản phẩm.
Ông Trần An: Về phía Bộ Khoa học và Công nghệ tiếp tục triển khai chương trình phát triển thị trường khoa học công nghệ đến năm 2030 với mục tiêu chính: Tiếp tục triển khai bên cung bên cầu để chuyển hóa kết quả nghiên cứu thành sản phẩm. Chúng tôi sẽ tiếp tục rà soát kiện toàn chính sách có liên quan về thị trường KHCN để có sự đồng bộ thống nhất khi triển khai. Bên cạnh đó, sẽ phát triển các công cụ hỗ trợ phát triển công nghệ trong đó tập trung các tổ chức trung gian với vai trò kết nối bên cung bên cầu không chỉ chương trình 2075 và một số chương trình khác như 592, 68, đặc biệt quan tâm đến hỗ trợ thương mại hóa kết quả nghiên cứu, tài sản trí tuệ. Thực tế bản thân các doanh nghiệp đã chủ động tham gia hoạt động KH&CN nhưng cũng có hạn chế khi chưa có bộ phận nghiên cứu chuyên ngiệp. Vì vậy doanh nghiệp gặp nhiều rào cản khi tham gia các chương trình KHCN theo quy định pháp luật. Vì vậy chưa tiếp cận được nên nhiều sự hỗ trợ của nhà nước.
Trong thời gian tới, trọng tâm của chương trình là: Tiếp tục thúc đẩy tăng giá trị giao dịch trên thị trường KHCN từ kết quả nghiên cứu, tài sản trí tuệ; Kết nối thị trường khoa học và công nghệ Việt Nam với thuế giới, thúc đẩy tính sẵn sàng chuyển giao của công nghệ Việt Nam ra nước ngoài, vào thực tiễn; Gia tăng sự tham gia của các hiệp hội ngành nghề đặc biệt là nhóm ngành có giá trị cao có đóng góp cao cho nên kinh tế.
Thưa ông Nguyễn Tuấn Anh, ở góc độ doanh nghiệp, ông đánh giá chính sách mà Bộ KHCN đưa ra hiện nay như thế nào?
Ông Nguyễn Tuấn Anh: Cần phải đưa ra chính sách rất nhanh bởi công nghệ rất dễ lạc hậu, đứng vai trò Bộ KH&CN cần giúp giải quyết vấn đề thực sự nhanh và hiệu quả, ví dụ như trình đề án cần rút xuống một quý để các nhà khoa học như Lumi nộp dự án. Nếu để 6-7 tháng thì mọi thứ đã thay đổi, thành sản phẩm mới mất rồi.
Vậy Lumi cũng đã được công nhận là doanh nghiệp khoa học công nghệ, điều này sẽ tác động như thế nào đến công ty thưa ông?
Ông Nguyễn Tuấn Anh: Lumi được nhận hỗ trợ về thuế rất lớn, ví dụ có lợi nhuận không phải nộp lại nhiều. Nhờ đó Lumi có thể đầu tư lại cho nghiên cứu & phát triển (R&D) hay hợp tác với trường hay Viện nghiên cứu, giúp Lumi tiếp cận nhanh và đi nhanh với sản phẩm công nghệ. Giải pháp mới cung cấp cho khách hàng, sản phẩm công nghệ phải đưa ra kịp thời đến khách hàng, nếu không chậm chân sẽ bị loại bỏ khỏi thị trường.
Tôi làm việc tại một Bộ ở Hà Nội, tôi thấy trong cơ quan tôi có rất nhiều đề tài khoa học nghên cứu nhận tiền xong thì cất ngăn kéo. Vậy Bộ KHCN có biện pháp gì để giải quyết vấn đề này? ( Độc giả Nguyễn Nam – Hà Nội)
Ông Trần An, Cục Phát triển thị trường doanh nghiệp KHCN: Chính phủ đã ban hành Nghị định 70/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 quy định việc quản lý, sử dụng tài sản được hình thành thông qua việc triển khai thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ sử dụng vốn nhà nước. Nghị định đã quy định phương án xử lý tài sản sau khi nghiệm thu nhiệm vụ khoa học và công nghệ. Vì vậy, các kết quả sau khi kết thúc nhiệm vụ mà phải có phương án xử lý nhất định như tiếp tục nghiên cứu, phát triển công nghệ, sản phẩm công nghệ, ứng dụng, thương mại hóa.
Ông Trần An, Cục Phát triển thị trường doanh nghiệp KHCN.
Tôi là một nhà khoa học độc lập và sính sống tại Việt Nam, vậy tôi có thể tiếp cận với nguồn kinh phí hỗ trợ nghiên cứu KHCN hay không, nếu có thì làm cách nào? (Độc giả Bình Minh – TP.HCM)
Ông Trần An, Cục Phát triển thị trường doanh nghiệp KHCN: Luật Khoa học và Công nghệ năm 2013 đã quy định chính sách khuyến khích cá nhân hoạt động khoa học và công nghệ. Bên cạnh đó, Đảng và Nhà nước đã ban hành các chương trình, đề án hỗ trợ trực tiếp hoặc gián tiếp cá nhân tham gia hoạt động khoa học và công nghệ.
Độc giả quan tâm đến vấn đề này xin gửi câu hỏi theo địa chỉ toasoan@ictnews.vn
Nhóm PV
" alt="Tọa đàm “Phát triển thị trường Khoa học công nghệ”" />
...[详细]