您现在的位置是:Thế giới >>正文
Tôi không chịu nổi khi xem 'Thương ngày nắng về'
Thế giới662人已围观
简介* Bài viết thể hiện quan điểm của tác giảMấy ngày nay tôi thấy mọi người ...
* Bài viết thể hiện quan điểm của tác giả
Mấy ngày nay tôi thấy mọi người sôi lên bàn luận,ôikhôngchịunổikhixemThươngngàynắngvềsora aoi nhao nhao chỉ tríchThương ngày nắng về, kêu phim vô lý, gây ức chế rồi còn tuyên bố bỏ phim chỉ vì không đồng tình với vài ba tình tiết họ cho là không có ngoài đời.
Tôi thấy mọi người đang bị lôi vào những cuộc tranh cãi vô bổ mất thời gian vì đó chỉ là một bộ phim xem để giải trí thôi, sao cứ bắt nó phải đúng thực tế như một bộ phim tài liệu hay bản tin thời sự nhỉ?... Quan trọng nhất là bộ phim ấy, các nhân vật ấy đã mang lại cho chúng ta nhiều cảm xúc khác nhau mà vốn hàng ngày chúng ta bị chai sạn trong nỗi lo cơm áo gạo tiền.

Tôi thấyThương ngày nắng về càng được quan tâm, càng bị lôi ra mổ xẻ thì càng chứng tỏ sức hút của phim.Thương ngày nắng vềđược làm lại từ bộ phim Hàn Quốc Mother of Minenhưng đã được Việt hóa đi rất nhiều với những câu chuyện, bối cảnh, nhân vật mà khi xem ai cũng thấy quen thuộc như ở đâu đó trong cuộc sống.
Từ phim Về nhà đi connăm 2019 đến nay tôi mới lại thấy một bộ phim Việt nhiều cảm xúc đến như vậy. Nếu bộ phim kia là câu chuyện về ông bố một mình nuôi 3 cô con gái thì giờ là một bà mẹ tảo tần nuôi 3 con gái bằng gánh bún riêu, trong đó có một người con nuôi mà bà tự hào và yêu hơn cả con ruột.
Ở phần 2 này dù câu chuyện xoay quanh hành trình tìm lại mẹ của Trang, chuyện tình cảm của cô cũng như sóng gió trong gia đình Khánh nhưng tôi thấy đất diễn dành cho các bà mẹ rất nhiều. Phải thú thật là rất nhiều tập phim khi xem tôi đã không thể chịu nổi vì quá xúc động. Tôi rơi nước mắt vì thương Khánh bị đẩy vào bi kịch, xúc động vô cùng khi bà Nga xem clip Khánh bị đánh ghen rồi gào khóc đau đớn và ngất đi vì thương con. Thật sự xem cảnh bà Nga đòi ra viện và đến tận phòng khách sạn gặp Khánh rồi nói: "Về nhà với mẹ, có mẹ đây rồi" tôi đã khóc vì thương họ.

Phải nói rằng biên kịch Thương ngày nắng vềđã viết ra một câu chuyện đầy cảm xúc. Đối lập với cảm xúc căm ghét, bức xúc khán giả dành cho bà Hiền hay Thương thì bao trùm vẫn là sự ấm áp về tình mẫu tử, về tình chị em mà những người trong gia đình Khánh đã dành cho nhau cho dù Trang không cùng dòng máu. Đã lâu lắm tôi mới thấy một bộ phim đẩy cảm xúc của người xem đến tận cùng như thế và đó là thành công của Thương ngày nắng về.
Với bộ phim này tôi cũng đặc biệt ấn tượng với diễn xuất của dàn diễn viên vô cùng hợp vai và nhập vai. Tất cả, từ NSND Minh Hòa, NSƯT Thanh Quý, NSND Trung Anh, NSND Lan Hương, Hồng Đăng, Lan Phương, Huyền Lizzie, Thu Hà đều đã có một vai diễn xuất sắc đi vào lòng người. Họ diễn rất đời và quá cảm xúc, như thể chính họ là bà Nhung, bà Nga, ông Hùng, bà Hiền, Đức, Khánh, Trang.

Nhiều người nói biên kịch đã quá tàn nhẫn với Khánh, dồn cho cô quá nhiều bi kịch và phản đối chi tiết chị chồng cài bẫy em dâu để đẩy em dâu vào đường cùng. Nhiều người cũng sôi máu vì nhân vật Đức quá đần độn không biết đúng sai. Tôi thì thấy các chi tiết này đắt giá bởi đó là những điểm mấu chốt cần thiết tạo nên bước ngoặt số phận cho các nhân vật và tất nhiên là tạo độ kịch tính cho phim. Nếu ai theo dõi Thương ngày nắng vềkỹ thì thấy diễn biến phim đều logic.
Thêm nữa tôi thấy nhiều người quá hồ đồ đưa ra những nhận định rằng phim vô lý trong khi Thương ngày nắng vềvẫn đang phát sóng và chưa kết thúc, nhiều diễn mới còn ở phía trước. Chắc chắn Đức có lý do để quyết định ly hôn Khánh bằng được và Khánh cũng sẽ hành động để lấy lại danh dự cho mình. Nếu tất cả đều rõ ràng ngay trong 1 tập phim thì còn gì thu hút nữa.

Nhiều người chỉ trích bộ phim và nói họ ức chế, stress khi xem Thương ngày nắng về, thậm chí còn tuyên bố dừng xem, yêu cầu phim ngừng chiếu. Tôi nghĩ đó là ý kiến của những người chỉ xem Thương ngày nắng về kiểu cưỡi ngựa xem hoa và chưa đồng cảm với nỗi đau của các nhân vật mà xa hơn là thờ ơ với cuộc sống.
Thanh Lan
Nếu bạn có ý kiến, hãy gửi cho chúng tôi bài viết vào địa chỉ: banvanhoa@vietnamnet.vn. Ý kiến của bạn có thể không trùng với quan điểm của bài viết đã đăng trên VietNamNet.
Tags:
相关文章
Tọa đàm “Phát triển thị trường Khoa học công nghệ”
Thế giớiTọa đàm “Phát triển thị trường Khoa học công nghệ” nhằm tìm giải pháp thúc đẩy thị trường khoa học công nghệ Việt Nam.
Với chủ đề “Phát triển thị trường Khoa học công nghệ”, tọa đàm có sự tham dự của ông Trần An, đại diện Cục Phát triển thị trường doanh nghiệp KHCN, Bộ KH&CN; PGS.TS Tạ Hải Tùng, Viện trưởng Viện Công nghệ thông tin và truyền thông, Đại học Bách Khoa Hà Nội; ông Nguyễn Tuấn Anh, Chủ tịch Công ty Lumi Việt Nam và đại diện một số doanh nghiệp.
Chia sẻ về lý do tổ chức tọa đàm, ông Võ Đăng Thiên, Phó Tổng biên tập báo VietNamNet cho biết: KHCN có vai trò rất quan trọng tạo sự bứt phá cho xã hội. Vì thế, các nước tiên tiến đều tập trung đầu tư cho KHCN để thúc đẩy kinh tế xã hội phát triển bền vững. Ở Việt Nam, KHCN giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, tạo những bước nhảy vọt cho sự phát triển. Vai trò này cũng được Đảng và Nhà nước khẳng định từ nhiều năm trước bằng nhiều nghị quyết, văn bản. Bên cạnh đó, việc đổi mới công nghệ là đòi hỏi cấp thiết trong bối cảnh hội nhập quốc tế và đặc biệt là cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 để nâng cao năng lực cạnh tranh cho các doanh nghiệp Việt Nam.
Ông Võ Đăng Thiên, Phó Tổng biên tập Báo VietNamNet Trong những năm qua có một thực tế rằng mỗi liên hệ giữa hoạt động nghiên cứu và thị trường, giữa nhà khoa học với doanh nghiệp chưa thực sự mạnh mẽ. Thực tế này khiến cả nhà khoa học, doanh nghiệp và nhà nước và người dân đều thiệt thòi, tiềm năng sẵn có không được phát huy. Nhiều sáng chế, giải pháp được nghiên cứu, nhưng gặp khó khăn về thương mại hóa.
Trước vấn đề này, Chính phủ đã nổ lực thúc đẩy kết nối giữa ba nhà gồm viện, trường - doanh nghiệp - nhà nước. Từ đó cải thiện chất lượng thị trường giao dịch, mối quan hệ cung cầu công nghệ, chuyển giao sản phẩm công nghệ mới được phát triển. Để hỗ trợ các doanh nghiệp đổi mới công nghệ, Bộ KH&CN đã có nhiều chương trình, dự án hỗ trợ nghiên cứu KHCN. Bộ cũng thúc đẩy chuỗi phát triển thị trường KHCN phải bao gồm nghiên cứu - trung gian và chuyển giao. Trong đó, chương trình 2075 được coi là yếu tố trung gian hỗ trợ thương mại hóa các nghiên cứu trong nhà trường và của nhà khoa học.
Thời gian qua, dù thị trường KHCN đã được định hình và phát triển, nhưng nguồn cung về các giải pháp, thiết bị dịch vụ công nghệ còn hạn chế. Tốc độ tăng trưởng bình quân giá trị giao dịch công nghệ chung toàn nền kinh tế là 20,9%. Trong đó, mức độ đóng góp những nghiên cứu từ viện, trường vào công nghệ chủ lực còn thấp. Nguồn cung thị trường KHCN chưa cao do những công trình nghiên cứu tại các trường được trải qua nhiều bước sàng lọc trước khi xem xét tới khả năng thương mại. Bởi có một số nghiên cứu dù có kết quả nghiệm thu tốt nhưng chưa sẵn sàng chuyển giao và có đủ điều kiện, yếu tố thị trường để doanh nghiệp, thị trường đón nhận.
Theo kết quả khảo sát đổi mới sáng tạo trong doanh nghiệp thuộc dự án FIRST-NASATI thực hiện mới đây, có tới gần 85% doanh nghiệp tự tiến hành hoạt động nghiên cứu phát triển để có được các sản phẩm mới, chỉ có gần 14% doanh nghiệp đã phối hợp với đơn vị bên ngoài triển khai nghiên cứu đổi mới sản phẩm.
"Trên tinh thần đó, báo VietNamNet tổ chức tọa đàm “Phát triển thị trường Khoa học công nghệ” với sự tham gia của đại diện các cơ quan quản lý, viện nghiên cứu và doanh nghiệp để giải đáp thông tin chính sách của Nhà nước về thị trường KHCN; những thành tựu, kinh nghiệm mà doanh nghiệp và cơ quan nghiên cứu đã đạt được trong quá trình phát triển thị trường KHCN. Đây cũng là một trong những động lực và là đích đến của KHCN nước nhà, thương mại hóa và đưa các sản phẩm ra đời sống, phục vụ phát triển đất nước, phục vụ đời sống nhân dân, cũng là tự phát triển bản thân và khẳng định mình”, Phó Tổng Biên tập Võ Đăng Thiên cho biết.
Thưa ông, Bộ KHCN đã đưa ra chương trình 2075 được coi là yếu tố trung gian hỗ trợ thương mại hóa các nghiên cứu trong nhà trường và của nhà khoa học. Vậy chương trình này hoạt động đã đem lại kết quả ra sao thưa ông?
Ông Trần An, Cục Phát triển thị trường doanh nghiệp KHCN: Chương trình phát triển thị trường KH và CN đến năm 2020 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 2075/QĐ-TTg ngày 8-11-2013 và bắt đầu triển khai từ năm 2015, Chương trình đã đạt được một số kết quả như sau:
Tổ chức trung gian có vai trò quan trọng đối với sự phát triển của thị trường khoa học và công nghệ vì vậy thông qua Dự án “Xây dựng hệ thống liên kết các sàn giao dịch công nghệ và thiết bị trực tuyến vùng duyên hải Bắc Bộ nhằm thúc đẩy thị trường công nghệ tại Việt Nam” đã góp phần kết nối 05 sàn giao dịch công nghệ của 05 tỉnh/thành Hải Phòng, Quảng Ninh, Nam Định, Thái Bình, Ninh Bình ứng dụng CNTT trong việc kết nối mua bán công nghệ, đẩy mạnh quá trình thương mại hóa kết quả nghiên cứu, tài sản trí tuệ.
Ông Trần An, Cục Phát triển thị trường doanh nghiệp KHCN (Bộ KHCN) Đối với tài sản trí tuệ giai đoạn 2016-2020, đã có hơn 25 sản phẩm được đăng ký quyền sở hữu trí tuệ, đặc biệt từ dự án thương mại hóa kết quả nghiên cứu, tài sản trí tuệ của Chương trình, đã góp phần nhằm làm tăng số lượng sản phẩm công nghệ được đăng ký quyền sở hữu trí tuệ và tạo động lực gia tăng giá trị giao dịch mua bán tài sản trí tuệ bao gồm (giải pháp, quy trình, bí quyết công nghệ).
Hàng năm, Bộ Khoa học và Công nghệ tổ chức các sự kiện về xúc tiến chuyển giao công nghệ, thương mại hóa kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ, tài sản trí tuệ; phát triển thị trường và doanh nghiệp khoa học và công nghệ; Chợ chợ công nghệ và thiết bị; Trình trình diễn kết nối cung - cầu công nghệ; ngày hội khởi nghiệp công nghệ và các sự kiện về đổi mới sáng tạo; triển lãm sáng chế, triển lãm sản phẩm khoa học và công nghệ tiềm năng thương mại hóa ở trong nước và nước ngoài. Các sự kiện này tổ chức hàng năm quy mô vùng, quốc gia và quốc tế đã thúc đẩy hoạt động giao dịch công nghệ và thiết bị, tạo được hiệu ứng tích cực đối với thị trường KH&CN.
Có một thực trạng là việc liên kết giữa nghiên cứu và thị trường, giữa nhà khoa học và doanh nghiệp vẫn còn hạn chế. Vậy chúng ta đã có những giải pháp gì để giải quyết bài toán này?
Ông Trần An: Việc thúc đẩy liên kết và chuyển giao công nghệ giữa viện, trường với doanh nghiệp vẫn là một bài toán khó. Chỉ 5,7% doanh nghiệp được hỏi cho biết tìm đến viện, trường khi có nhu cầu ứng dụng đổi mới công nghệ và nâng cao chất lượng sản phẩm. Vì vậy cần tập trung hoàn thiện thể chế chính sách để phát triển thị trường khoa học và công nghệ trong bối cảnh mới; phát triển các tổ chức trung gian của thị trường khoa học và công nghệ. Bên cạnh đó, chú trọng phát triển hạ tầng quốc gia của thị trường khoa học và công nghệ; thúc đẩy phát triển nhu cầu về hàng hóa khoa học và công nghệ, nâng cao năng lực hấp thụ, tiếp thu, làm chủ và áp dụng công nghệ tại các doanh nghiệp; thúc đẩy phát triển nguồn cung hàng hóa khoa học và công nghệ trên thị trường khoa học và công nghệ; tăng cường các hoạt động xúc tiến thị trường khoa học và công nghệ; đẩy mạnh việc xã hội hóa các sự kiện thúc đẩy kết nối cung - cầu công nghệ với sự tham gia của khu vực tư nhân…
Tôi muốn đặt câu hỏi cho ông Tạ Hải Tùng, Viện trưởng Viện Công nghệ thông tin và truyền thông (Đại học Bách Khoa HN). Theo đánh giá của ông thì các mô hình mà nhà nước hỗ trợ cho việc nghiên cứu KHCN và thương mại nó ra sao?
PGS.TS Tạ Hải Tùng: Để hoạt động thương mại hóa kết quả nghiên cứu trở nên hiệu quả thì có mấy vấn đề. Một là: ta phải có kết quả nghiên cứu tốt, có thể giải quyết được bài toán thị trường. Hai là đôi khi chúng ta nghĩ mọi nghiên cứu phải đi đến thị trường ngay song thực ra nghiên cứu có nhiều sứ mệnh. Nếu nghiên cứu cơ bản, nó để phát triển tri thức, các nhà khoa học luôn phải làm để đóng góp cho kho tàng tri thức nhân loại, ngoài ra các nhà khoa học còn có thêm nhiệm vụ đào tạo. Nghiên cứu cơ bản đóng góp rất tốt cho tri thức và đào tạo, nếu đi tới thị trường cần quá trình dài.
Về nghiên cứu ứng dụng, phải định hướng thị trường. Chúng ta mong muốn từ một đề tài ra thẳng thị trường, các nước cũng không làm được điều đó.
Do đó, đầu tiên, chúng ta phải xác định rõ vai trò và sứ mệnh của nghiên cứu khoa học. Thứ hai, chất lượng chúng ta không thể nào chuyển giao và doanh nghiệp không tìm đến nếu chất lượng không đáp ứng được.
Khi có quản lý tốt rồi mới nghĩ tới sự hỗ trợ của bước đi ra thị trường. Nhà nước nên đầu tư mạnh hơn nữa cho nghiên cứu vì bao giờ cũng thế, lượng đổi chất sẽ đổi đặc biệt trong bối cảnh chất lượng còn tương đối thấp. Tuy nhiên, hiện tại, làn sóng các bạn trẻ trở về nước, cung cấp đủ kinh phí họ làm nghiên cứu để từ đó ra sản phẩm… Cần trợ lực hơn nữa để có thể bùng nổ.
Ông Tạ Hải Tùng, Viện trưởng Viện Công nghệ thông tin và truyền thông (Đại học Bách Khoa HN) Chương trình sẽ tốt hơn nếu doanh nghiệp đặt hàng cho các nhà khoa học. Vấn đề đến từ hai phía nhưng chúng ta có vẻ đang tập trung vào phía đưa nghiên cứu từ ngăn tủ ra thị trường. Vấn đề ngược lại là từ doanh nghiệp đến nhà khoa học, tôi kỳ hơn vào chiều này.
Các chương trình hỗ trợ chỉ có thể đến điểm bùng nổ nếu kết quả đủ tốt. Hai bên không có gì để gặp nhau, nếu ép gặp cũng khó. Nếu sản phẩm đủ tốt, thị trường có nhiều quỹ, doanh nghiệp, tập đoàn, cá nhân sẵn sàng bỏ tiền vào làm.
Thưa ông, tại Viện Công nghệ thông tin và truyền thông của ông có gặp phải khó khăn nào khi nghiên cứu và thương mại hóa các sản phâm công nghệ?
PGS.TS Tạ Hải Tùng: Chúng tôi có nhiều sản phẩm đưa ra thị trường nhưng quy mô còn hạn chế. 3 năm gần đây, tình hình khởi sắc hơn nhiều vì đầu tư của nhà nước gửi anh em đi học nước ngoài, nhiều người trở về.
Trình độ phát triển cũng có sự thay đổi về bản chất, chúng ta dần nhận ra câu chuyện nền công nghiệp chỉ dựa vào gia công không còn nhiều dư địa phát triển, do đó phải đầu tư nghiên cứu khoa học. Khi đầu tư chắc chắn sẽ có thành quả. Khi có kết quả tốt, lại có câu chuyện các bạn tự tìm tòi đưa sản phẩm đến thị trường.
Chúng tôi chưa có dự án nào dựa vào hệ thống hỗ trợ của nhà nước mà đa phần các bạn tự triển khai. Ví dụ, các bạn đi thi các giải thưởng như Nhân tài Đất Việt, sau đó các bạn đi gặp quỹ đầu tư hoặc quỹ hỗ trợ khởi nghiệp đổi mới sáng tạo, lập nhóm để startup hoặc spinoff. Tôi thấy có 4, 5 nhóm như vậy và họ có sản phẩm độc đáo.
Cái hay là để một doanh nghiệp đầu tư cho R&D để nuôi được 5 tiến sĩ từ nước ngoài về như vậy, mỗi tháng phải bỏ ra tối thiểu 1 tỷ, 1 năm chưa ra được gì mất khoảng 12 tỷ. Song, chỉ mất khoảng 2 tỷ nếu hợp tác với các trường. Đó là vì anh đến, nhìn kết quả của họ có phù hợp với bài toàn hay không, anh đặt hàng chỉnh sửa cho phù hợp. Tôi cho rằng việc doanh nghiệp tìm đến trường đã xảy ra chính vì nhu cầu tự thân của doanh nghiệp, chi phí đỡ tốn kém hơn.
Cuối cùng vẫn là câu chuyện chất lượng nghiên cứu, đầu bài, mọi thứ phát triển hơn sẽ bảo đảm.
Tôi được biết Viện CNTT - TT có được nhận nguồn vốn đầu tư cho nghiên cứu khoa học các quỹ trong đó có Vingroup. Ông có so sánh gì từ việc hỗ trợ của các tổ chức này và nguồn vốn của nhà nước?
PGS.TS Tạ Hải Tùng: Tôi về nước năm 2011 có gần 10 năm làm KHCN trong nước, đã nhìn thấy sự thay đổi ấn tượng trong 10 năm nay. Trước đây 10 năm, ở trong trường, hồi đó đi dạy mới có thu nhập. Để apply một đề tài nhà nước chắc 2-3 năm mới được 1 đề tài, khi được phê duyệt cũng hết vấn đề nóng. Các bạn trẻ khả năng tiếp cận đề tài nhà nước gần như không có.
Gần đây, chúng tôi thấy sự tiếp cận mạnh và nhanh chóng của các quỹ, tập đoàn nước ngoài như Samsung, IBM, Naver… họ có cách tiếp cận rất hiện đại. Để xin một đề tài của nhà nước, từ lúc đề xuất đến lúc ký hợp đồng mất khoảng 1 tới 1,5 năm. Nếu apply đề tài từ quỹ của Vingroup chỉ mất 3,4 tháng để ký hợp đồng tài trợ… Cách tiếp cận từ lúc nộp hồ sơ, xét duyệt, ký hợp đồng, hỗ trợ… rất hiệu quả.
Nhà khoa học chỉ chuyên tâm nghiên cứu thay vì phải làm nhiều câu chuyện liên quan tới quản lý, dự án, đề tài, giải ngân và thủ tục hành chính khác. Đang có xu hướng trong đơn vị là bỏ qua nguồn kinh phí của nhà nước vì quá phức tạp và bất cập, chỉ tập trung vào quỹ nước ngoài và tập đoàn trong nước. Tôi nghĩ rằng đây là xu hướng hay và cơ quan quản lý sẽ phải nhìn lại cách đánh giá, vận hành chương trình của mình nếu không các nhóm nghiên cứu trẻ, năng động sẽ dồn hết sang quỹ nước ngoài.
Theo ông, Nhà nước nên làm gì trong việc hỗ trợ đề tài khoa học trước bối cảnh như vậy?
PGS.TS Tạ Hải Tùng: Câu chuyện tự chủ đại học, nhiều người cho rằng cái gì cũng nên xã hội hóa, dựa vào nguồn nước ngoài, doanh nghiệp tư nhân. Song, khi tìm hiểu, kể cả ở Mỹ, nguồn đầu tư cho nghiên cứu khoa học nhiều nhất vẫn là từ nhà nước. Riêng đối với trường đại học, thống kê của họ cho thấy nhà tài trợ lớn nhất là nhà nước. Vì có những nghiên cứu không ra sản phẩm trực tiếp, các quỹ tập đoàn sẽ không tài trợ, họ chỉ tài trợ cho dự án nào gắn bó chặt chẽ với hoạt động sản xuất, kinh doanh của họ. Còn nhà nước vẫn phải làm vai trò nghiên cứu khoa học cơ bản, mang tính chất định hướng, dự báo, kể cả không "hot". Do vậy, nhà nước không thể nào bỏ qua việc tài trợ.
Nhưng chúng ta phải thay đổi hệ thống đánh giá, xét duyệt, vận hành quy trình để các quỹ mang tính chất dài hơi hơn, hiệu quả hơn. Ví dụ, để một nhà khoa học đề xuất đề tài, họ phải đề xuất chủ đề nghiên cứu, lại có hội đồng xét duyệt chủ đề ấy rồi mang đi đấu thầu. Như vậy là không đúng vì chưa chắc người đề xuất đề tài ấy được thực hiện dự án đó. Nhà nước đã lấy cái đó làm đầu bài của nhà nước.
Tại sao không kết hợp hai cái làm một là đề xuất luôn chủ đề nghiên cứu và đề xuất luôn tôi sẽ làm dự án đó. Quy trình ấy nhiều năm nay vẫn tồn tại. Chính vì năng lực ra đầu bài không tốt nên huy động các nhà khoa học ra đầu bài. Đáng lẽ người ra đầu bài thực hiện luôn lại dùng nó để đi đấu thầu, tôi thấy chưa hợp lý. Tôi đề nghị nên thay đổi.
Ngoài ra, nhà nước cố gắng bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, khi nhà khoa học chuyển giao lo ngại nhất là mất quyền sở hữu trí tuệ. Họ sẽ phải đi đăng ký bằng sáng chế nhưng hiện tại do số lượng chuyên gia xét duỵet chưa được nhiều, thời gian lâu. Thời gian sau xảy ra tranh chấp, nên có hệ thống hỗ trợ họ.
Thêm nữa, làm thế nào để câu chuyện sử dụng hàng Make in Vietnam thực chất hơn thì doanh nghiệp tìm đến nhà khoa học nhiều hơn.
Tôi muốn đặt câu hỏi cho ông Nguyễn Tuấn Anh, Chủ tịch Công ty Lumi Việt Nam - một công ty chuyên về thiết bị chiếu sáng thông minh. Khi phát triển các sản phẩm công nghệ của mình Lumi có tiếp cận được có được tiếp cận các nguồn lực từ phía nhà nước như vốn đầu tư, cơ chế hỗ trợ khoa học công nghệ… hay không?
Ông Nguyễn Tuấn Anh: Lumi ra đời từ năm 2012 tự lực là chủ yếu, Bộ KH&CN cũng có một số hỗ trợ như về sản phẩm đưa ra thị trường, hỗ trợ quảng bá ở các hội chợ triển lãm trong và ngoài nước. Lumi đánh giá sự hỗ trợ này khá là thiết thực.
Ngoài ra việc đăng ký sở hữu trí tuệ, kiểu dáng công nghệ, Lumi cũng có sự hỗ trợ từ Viện Sáng chế. Chúng tôi cũng được hỗ trợ bảo hộ sở hữu trí tuệ để đảm bảo không có xung đột với nước ngoài.
Năm nay, Lumi còn được chứng nhận doanh nghiệp KH&CN, đây là vinh dự rất lớn để Lumi có nguồn lực tốt hơn đầu tư mạnh cho nghiên cứu & phát triển (R&D).
Ông Nguyễn Tuấn Anh, Chủ tịch Công ty Lumi Việt Nam Vậy ông đánh giá sản phẩm ra thị trường hiện gặp vấn đề gì?
Ông Nguyễn Tuấn Anh: Chúng tôi gặp nhiều khó khăn ở chỗ ý tưởng này có chưa, có xung đột về mặt sở hữu trí tuệ hay không. Chúng tôi đánh giá phải có thông tin về việc này nếu không sẽ rất rủi ro cho doanh nghiệp.
Bởi khi dành nhiều công sức cho sản phẩm, các nguồn lực khác sẽ bị hạn chế. Bộ KH&CN có thể hỗ trợ được nhưng một sản phẩm công nghệ phải đủ nhanh để ra thị trường (thông thường 6 tháng đến 1 năm), mất 2-3 năm xin tài trợ là quá muộn. Ngoài ra, Bộ có thể hỗ trợ doanh nghiệp mang sản phẩm công nghệ ra nước ngoài, được lắng nghe, phản hồi cải tiến đáp ứng nhu cầu thị trường. Đây là những khó khăn mà chúng tôi đánh giá Nhà nước có một phần hỗ trợ được.
Cụ thể Nhà nước phải hỗ trợ như thế nào, thưa ông?
Ông Nguyễn Tuấn Anh: Về phần công nghệ lõi sâu, các nhà trường và Viện nghiên cứu nắm khá sâu, Lumi hay các doanh nghiệp dành thời gian nghiên cứu là rất khó khăn do bị hạn chế về nguồn lực và thời gian. Việc giúp Lumi kết nối các Viện, đứng vai trò doanh nghiệp như Lumi cần gì, hỗ trợ nguồn lực nghiên cứu sâu. Đây là những việc mà viện nhà trường nghiên cứu có thể làm được để kết nối.
Để một sản phẩm thương mại hóa ra thị trường, về mặt phần cứng, ví dụ như khuôn, chi phí là rất cao. Vì thế rất mong Bộ KH&CN có phương pháp giúp doanh nghiệp đưa sản phẩm ra thị trường nhanh nhất.
Ngoài ra, hỗ trợ doanh nghiệp chứng thực đây là sản phẩm công nghệ Make in Vietnam, từ đó tạo được niềm tin cho người tiêu dùng.
Ngoài ra Bộ KH&CN tổ chức các sự kiện truyền thông online/offline giúp doanh nghiệp mở rộng thị trường, kết nối các đối tác và doanh nghiệp nước ngoài.
Hỗ trợ đánh giá về tiêu chuẩn, chất lượng sản phẩm, bởi các thị trường nước ngoài như Mỹ, Nhật Hàn không quá quan tâm về thuế mà phải đáp ứng tiêu chuẩn chất lượng, những việc này doanh nghiệp như Lumi không nắm đầy đủ. Đây là việc mà các Viện nghiên cứu tư vấn đầu mối có thể hỗ trợ được doanh nghiệp khi đưa sản phẩm ra thị trường nước ngoài.
Mục đích cuối cùng là hỗ trợ để tạo ra thành quả tốt nhất, sản phẩm bán được ra thị trường thì tất mọi người hỗ trợ trong các khâu đều được hưởng lợi.
Tôi quay trở lại câu hỏi với đại diện Cục Phát triển thị trường doanh nghiệp KHCN, với các đề xuất của các doanh nghiệp và viện nghiên cứu như trên thì Bộ KHCN hiện nay có thể hỗ trợ được thế nào để có thể thúc đẩy việc thúc đẩy thương mại hóa sản phẩm.
Ông Trần An: Về phía Bộ Khoa học và Công nghệ tiếp tục triển khai chương trình phát triển thị trường khoa học công nghệ đến năm 2030 với mục tiêu chính: Tiếp tục triển khai bên cung bên cầu để chuyển hóa kết quả nghiên cứu thành sản phẩm. Chúng tôi sẽ tiếp tục rà soát kiện toàn chính sách có liên quan về thị trường KHCN để có sự đồng bộ thống nhất khi triển khai. Bên cạnh đó, sẽ phát triển các công cụ hỗ trợ phát triển công nghệ trong đó tập trung các tổ chức trung gian với vai trò kết nối bên cung bên cầu không chỉ chương trình 2075 và một số chương trình khác như 592, 68, đặc biệt quan tâm đến hỗ trợ thương mại hóa kết quả nghiên cứu, tài sản trí tuệ. Thực tế bản thân các doanh nghiệp đã chủ động tham gia hoạt động KH&CN nhưng cũng có hạn chế khi chưa có bộ phận nghiên cứu chuyên ngiệp. Vì vậy doanh nghiệp gặp nhiều rào cản khi tham gia các chương trình KHCN theo quy định pháp luật. Vì vậy chưa tiếp cận được nên nhiều sự hỗ trợ của nhà nước.
Trong thời gian tới, trọng tâm của chương trình là: Tiếp tục thúc đẩy tăng giá trị giao dịch trên thị trường KHCN từ kết quả nghiên cứu, tài sản trí tuệ; Kết nối thị trường khoa học và công nghệ Việt Nam với thuế giới, thúc đẩy tính sẵn sàng chuyển giao của công nghệ Việt Nam ra nước ngoài, vào thực tiễn; Gia tăng sự tham gia của các hiệp hội ngành nghề đặc biệt là nhóm ngành có giá trị cao có đóng góp cao cho nên kinh tế.
Thưa ông Nguyễn Tuấn Anh, ở góc độ doanh nghiệp, ông đánh giá chính sách mà Bộ KHCN đưa ra hiện nay như thế nào?
Ông Nguyễn Tuấn Anh: Cần phải đưa ra chính sách rất nhanh bởi công nghệ rất dễ lạc hậu, đứng vai trò Bộ KH&CN cần giúp giải quyết vấn đề thực sự nhanh và hiệu quả, ví dụ như trình đề án cần rút xuống một quý để các nhà khoa học như Lumi nộp dự án. Nếu để 6-7 tháng thì mọi thứ đã thay đổi, thành sản phẩm mới mất rồi.
Vậy Lumi cũng đã được công nhận là doanh nghiệp khoa học công nghệ, điều này sẽ tác động như thế nào đến công ty thưa ông?
Ông Nguyễn Tuấn Anh: Lumi được nhận hỗ trợ về thuế rất lớn, ví dụ có lợi nhuận không phải nộp lại nhiều. Nhờ đó Lumi có thể đầu tư lại cho nghiên cứu & phát triển (R&D) hay hợp tác với trường hay Viện nghiên cứu, giúp Lumi tiếp cận nhanh và đi nhanh với sản phẩm công nghệ. Giải pháp mới cung cấp cho khách hàng, sản phẩm công nghệ phải đưa ra kịp thời đến khách hàng, nếu không chậm chân sẽ bị loại bỏ khỏi thị trường.
Tôi làm việc tại một Bộ ở Hà Nội, tôi thấy trong cơ quan tôi có rất nhiều đề tài khoa học nghên cứu nhận tiền xong thì cất ngăn kéo. Vậy Bộ KHCN có biện pháp gì để giải quyết vấn đề này? ( Độc giả Nguyễn Nam – Hà Nội)
Ông Trần An, Cục Phát triển thị trường doanh nghiệp KHCN: Chính phủ đã ban hành Nghị định 70/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 quy định việc quản lý, sử dụng tài sản được hình thành thông qua việc triển khai thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ sử dụng vốn nhà nước. Nghị định đã quy định phương án xử lý tài sản sau khi nghiệm thu nhiệm vụ khoa học và công nghệ. Vì vậy, các kết quả sau khi kết thúc nhiệm vụ mà phải có phương án xử lý nhất định như tiếp tục nghiên cứu, phát triển công nghệ, sản phẩm công nghệ, ứng dụng, thương mại hóa.
Ông Trần An, Cục Phát triển thị trường doanh nghiệp KHCN. Tôi là một nhà khoa học độc lập và sính sống tại Việt Nam, vậy tôi có thể tiếp cận với nguồn kinh phí hỗ trợ nghiên cứu KHCN hay không, nếu có thì làm cách nào? (Độc giả Bình Minh – TP.HCM)
Ông Trần An, Cục Phát triển thị trường doanh nghiệp KHCN: Luật Khoa học và Công nghệ năm 2013 đã quy định chính sách khuyến khích cá nhân hoạt động khoa học và công nghệ. Bên cạnh đó, Đảng và Nhà nước đã ban hành các chương trình, đề án hỗ trợ trực tiếp hoặc gián tiếp cá nhân tham gia hoạt động khoa học và công nghệ.
Độc giả quan tâm đến vấn đề này xin gửi câu hỏi theo địa chỉ toasoan@ictnews.vn
Nhóm PV
">...
【Thế giới】
阅读更多Nhan Phúc Vinh, Lã Thanh Huyền cắn răng chịu rét quay phim thời tiết 7 độ C
Thế giớiNhan Phúc Vinh và đoàn phim quay ngoài trời giá lạnh. Đúng tuần nhiệt độ Hà Nội xuống thấp kỷ lục tr ...
【Thế giới】
阅读更多Soi kèo phạt góc AC Milan vs Hellas Verona, 20h00 ngày 23/9
Thế giớiHồng Quân - 23/09/2023 05:00 Kèo phạt góc ...
【Thế giới】
阅读更多
热门文章
- Chở bạn gái đi chơi bị rượt đánh, thanh niên rút dao đâm 3 người
- Thu Huyền nói về hai vai diễn bị chê nhạt trong 'Phố trong làng'
- Quang Hải được AFC xếp 'chung mâm' với Xavi, Iniesta
- Quyền Linh đi dép tổ ong dẫn chương trình khiến Việt Hương cười ngất
- Đột nhập nhà dân, che camera trộm tài sản gần nửa tỷ đồng
- Nhanh như chớp nhí tập 8: Trấn Thành bật khóc vì cậu bé ‘tăng động’ ở Nhanh như chớp Nhí
最新文章
-
Đồng tiền mật mã Libra do Facebook hậu thuẫn vừa được đổi tên. “Cái tên ban đầu gặp khó khăn với các cơ quan quản lý. Chúng tôi đã thay đổi đáng kể đề xuất gửi lên. Đổi tên là cách biểu thị rằng, hiệp hội đang hoạt động một cách tự chủ và độc lập”, Stuart Levey chia sẻ thêm.
“Diem” có nghĩa là “ngày” trong tiếng Latin. Định hướng của Diem là tập trung xử lý mối lo ngại của các cơ quan quản lý và chính phủ, bao gồm tuân thủ các lệnh cấm vận và chống tội phạm rửa tiền.
Levey từ chối tiết lộ về thời gian ra mắt Diem, nhưng theo tờ Financial Timesđưa tin tuần trước, tiền mật mã của Facebook có thể ra đời ngay trong tháng 1/2021. Đó là trong trường hợp thuận lợi, được cơ quan giám sát thị trường Thụy Sĩ phê duyệt (Hiệp hội Diem đặt trụ sở tại Geneva).
Facebook công bố về dự án tiền mật mã vào năm ngoái. Tuy nhiên, các nhà chức trách và ngân hàng trung ương các quốc gia bày lo ngại rằng, đồng tiền mật mã của Facebook có thể làm đảo lộn sự ổn định tài chính và làm xói mòn khả năng quản lý tiền tệ.
Ban đầu, hiệp hội tiền mật mã do Facebook làm nòng cốt định xin cấp phép phát hành hàng loạt stablecoin, cũng như một đồng tiền mật mã thực sự dựa vào stablecoin. Tuy nhiên, đến nay dự án thu nhỏ lại, sẽ chỉ có đồng Diem.
Diem sẽ tiền mật mã dạng “stablecoin”, được hỗ trợ ổn định giá bởi đồng USD, tránh sự biến động giá tự do như Bitcoin hay các đồng tiền mật mã khác. Stablecoin nhìn chung dùng để thanh toán và chuyển tiền linh hoạt hơn, dựa trên công nghệ blockchain.
Anh Hào (Theo Reuters)
Nhật Bản chính thức thành lập nhóm chuyên trách phát hành tiền ảo
Nhóm này có nhiệm vụ phối hợp với ngân hàng trung ương các nước và các công ty tư nhân.
" alt="Tiền mật mã của Facebook có tên gọi mới">Tiền mật mã của Facebook có tên gọi mới
-
Anh có phải đàn ông không tập 12: Tuấn Khang ăn tát vì phản đối bố mang gái về nhà
-
Nhận định, soi kèo River Plate vs Atletico Mineiro, 7h30 ngày 30/10: Khó đảo ngược tình thế
-
Nhận định, soi kèo Egaleo vs PAOK FC, 20h30 ngày 30/10: Chống trả quyết liệt
-
.Buick Y-Job (1939)
Không thể phủ nhận tư duy của những người đi trước, Y-Job nổi bật với đèn pha ẩn, cửa sổ điện và mui xe được trang trí lạ mắt được giấu dưới lớp tôn cứng. Thiết kế này đã tạo ra những dấu ấn thiết kế tổng quan cho những chiếc xe Mỹ sẽ xuất hiện sau Thế chiến thứ hai.
2.Buick LeSabre (1951)
Để có một bản “cải biên” cho Y-Job của mình, Harley Earl đã cho ra đời LeSabre. LeSabre được trang bị động cơ V8 335 mã lực phanh đi kèm với kính chắn gió, đèn pha ẩn và kiểu dáng vây đuôi lớn đã tạo nên xu hướng cho ba nhà sản xuất ô tô lớn nhất của Mỹ trong suốt những năm 1950.
Buick LeSabre (1951) Nó cũng kết hợp một mái che được cấp điện có thể được kích hoạt tự động trong trường hợp trời mưa. Thiết kế của Buick LeSabre cũng là phong cách được sử dụng ở máy bay phản lực của Mỹ và ngành ô tô sản xuất sẽ tồn tại trong hơn một thập kỷ.
3.Ford XL500 (1953)
Với hộp số nút bấm tự động, XL-500 được cho là sẽ mang lại cảm giác lái xe vô cùng nhẹ nhàng. Vấn đề kính chắn gió dạng bình cá vàng được nêu ra trước đó sẽ được giải quyết bằng công nghệ điều hòa không khí mới nổi.
Ford XL500 (1953) Thiết bị tiêu chuẩn cũng bao gồm điện thoại và kích gầm xe trong trường hợp lốp bị thủng.
4.Alfa Romeo BAT 5 (1953)
Mỹ không có độc quyền về xe ý tưởng. Nhà thiết kế Ý Bertone đã sản xuất một loạt các mẫu xe ý tưởng mang tính đột phá trong những năm 1950, trong đó có lẽ đây là mẫu xe nổi bật nhất. Với ý tưởng theo đuổi thiết kế cực kì khí động học, hệ số cản của nó chỉ ở mức 0,23 - và trọng lượng nhẹ để có thể di chuyển nhanh chóng và nhẹ nhàng.
Alfa Romeo BAT 5 (1953) *khi di chuyển với tốc độ cao ô tô sẽ bị nhiều loại lực cản tác động chẳng hạn như: Lực cản lăn, lực quán tính, lực ma sát, lực cản của gió. Vậy nên các nhà sản xuất xe ô tô đã nghiên cứu vấn đề này để cải thiện tốc độ và khả năng vận hành của xe.
Alfa Romeo BAT 5 đã thành công; Mặc dù chỉ với động cơ khiêm tốn 100 mã lực phanh, chiếc xe nặng 1100kg này có thể cung cấp tốc độ tối đa là 120 km/h. Hiệu suất kéo BAT 7 vào năm tiếp theo chỉ có 0,19.
5.Buick Wildcat II (1954)
Với phần đầu xe 'hình cánh chim bay' và kết cấu bằng sợi thủy tinh, Wildcat II chắc chắn là chiếc xe của tương lai khi nó xuất hiện vào năm 1953 - cùng năm với chiếc Corvette nguyên bản.
Buick Wildcat II (1954) 6.De Soto Adventurer II Coupé (1954)
Adventurer II đến từ thiết kế Supersonic của Ghia của Giovanni Savonuzzi. Nó đã được Virgil Exner làm lại để phù hợp với chiều dài của khung xe Desoto và khi làm như vậy, ông đã tạo ra một thiết kế ấn tượng hơn nhiều. Tổng quan về chiếc xe này thì đây là một ý tưởng được nghĩ ra về một chiếc xe “láu cá” hơn là phô trương.
De Soto Adventurer II Coupé (1954) Điểm độc đáo của chiếc Ghia đặc biệt này là cửa sổ trời trượt ẩn vào khu vực cốp xe.
7.Ford FX Atmos (1954)
FX là viết tắt của Future Experimental. Nó được thiết kế theo kiểu máy bay phản lực, với đèn pha/thanh cản bùn phía trước gắn ăng-ten vô tuyến và mang một nét tương đồng mạnh mẽ với cửa hút khí của máy bay phản lực.
Ford FX Atmos (1954) Nó cũng có đèn hậu kiểu ống xả tên lửa và vây đuôi nổi bật mà Ford cho biết ý tưởng này "đến từ tư duy sáng tạo tự do và không giới hạn", đây thực sự là một thiết kế thời đại máy bay phản lực - hay thậm chí là thời đại vũ trụ.
8.GM Firebird I (1954)
Là mẫu xe đầu tiên trong số 3 mẫu xe ý tưởng Firebird của General Motors, Firebird có hệ thống điều khiển một thanh đi kèm với vô lăng, chân ga và phanh. Về cơ bản, đây là một chiếc máy bay phản lực có bánh và cũng là chiếc ô tô chạy bằng tuabin khí đầu tiên được thử nghiệm ở Hoa Kỳ.
GM Firebird I (1954) Thiết kế của chiếc xe này đặc biệt ở chỗ có mái che hình bong bóng trên buồng lái một chỗ ngồi, thân máy bay hình viên đạn được làm hoàn toàn bằng sợi thủy tinh, cánh ngắn và vây đuôi thẳng đứng.
9.Ford Mystere (1955)
Bạn sẽ không muốn phải lắp một chiếc kính chắn gió mới vì vẻ đẹp của chiếc xe này đến từ trang bị kính chắn gió có sẵn của nhà sản xuất.
Ford Mystere (1955) Cửa kính kiểu tròn dùng để làm vòm mái che, cửa sổ và kính chắn gió. Bản lề ở phía sau của mái che có thể mở lên 70 độ, ghế trước sẽ xoay ra ngoài và hành khách có thể dễ dàng ra vào bằng cửa nửa cánh.
10. Lincoln Futura (1955)
Được biết đến nhiều nhất nhờ vai diễn chính trong loạt phim truyền hình Người Dơi gốc, Futura xứng đáng có một vị trí trong danh sách này vì sự độc đáo ở mái vòm Plexiglass đôi cùng với các vây phía trước và phía sau.
Lincoln Futura (1955) Ford đã chi 250.000 đô la tương đương 2,5 triệu đô la Mỹ ngày nay (khoảng 56.6 tỷ đồng) để xây dựng chiếc xe ý tưởng chạy động cơ V8 300 mã lực phanh này.
11.Buick Centurion (1956)
Phần đuôi của chiếc xe này được lấy cảm hứng từ một chiếc máy bay chiến đấu phản lực. Điều này đáng được đề cập đặc biệt ở đây vì thay vì gương chiếu hậu, đã có một camera ở đuôi chiếu hình ảnh lên màn hình TV trên bảng điều khiển - một công nghệ mà bây giờ mới được đưa vào sản xuất ô tô.
Buick Centurion (1956) Toàn bộ phần đầu của chiếc xe được làm bằng kính, chỉ với một vài thanh trụ mỏng để tăng độ cứng.
12.GM Firebird II (1956) & III (1958)
GM đã tham gia thị trường để giám sát Firebird 1 (ở phía bên trái bức ảnh). Được chế tạo từ titan, Firebird II (ở giữa) được thiết kế để chạy trên đường có dẫn hướng, vì vậy nó là tiền thân của xe tự lái ngày nay.
GM Firebird II (1956) & III (1958) Hai năm sau, GM tiếp bước nó với Firebird III (phải). Lần này Harley Earl (trong ảnh) tìm cách chuyển cảm hứng từ máy bay phản lực sang tên lửa vũ trụ. Phiên bản 3 của Firebird được trang bị tính năng dẫn đường tự động, tuabin 225 mã lực phanh, đèn điều khiển khí hậu và đèn chiếu sáng tự động.
13.Oldsmobile Golden Rocket (1956)
Golden Rocket mạnh mẽ với công suất 275 mã lực phanh từ động cơ V8 3,2 lít của nó và khả năng điều chỉnh cột lái được trợ lực.
Oldsmobile Golden Rocket (1956) Khi cửa mở, những chiếc ghế được nâng lên và xoay ra bên ngoài. Những tính năng này đã được đưa vào sản xuất ô tô ngay sau đó. Một đặc điểm không có là các tấm mái có bản lề hướng lên trên để việc ra vào dễ dàng hơn.
14.Ford X-1000 (1957)
X-1000 được thiết kế bởi Alex Tremulis với động cơ có thể được gắn ở mũi hoặc đuôi. Cabin sang trọng được trang bị TV và hệ thống hi-fi trong khi có mái che có thể thu vào cho hai ghế, cho phép chiếc xe được lái như một chiếc xe mui trần hoặc một chiếc xe coupe đầu tròn.
Ford X-1000 (1957) 15.XP-700 Corvette (1958)
Thực ra là một chiếc Corvette đã được cải tạo lại, XP-700 có thiết kế phần mũi đặc biệt và phần tán trên đỉnh bằng thiên tròn mang lại cảm giác thời đại không gian về nó.
XP-700 Corvette (1958) Hoàn toàn là một nghiên cứu thiết kế, XP-700 cũng loại bỏ gương chiếu hậu thông thường và thay vào đó là kính tiềm vọng để tầm nhìn phía sau không bị cản trở.
Lam Ngọc(theo Autocar)
Khám phá Porsche 911 Turbo 1994 trong phim “Bad Boys” giá 1.43 triệu USD
Porsche 911 Turbo 1994 trong phim “Bad Boys” được đem ra đấu giá tại triển lãm Kissimmee Mecum năm 2022 với giá 1.43 triệu USD. Phiên đấu giá làm cho nó trở thành một trong những chiếc 911 Turbo thế hệ 964 đắt giá nhất.
" alt="Những mẫu xe ý tưởng có tầm ảnh hưởng nhất được chế tạo từ trước đến nay (P1)">Những mẫu xe ý tưởng có tầm ảnh hưởng nhất được chế tạo từ trước đến nay (P1)
-
Cát Phượng